Bí quyết làm bài thi ĐH đạt điểm cao môn Văn?

thuy linh
thuy linh
Trả lời 13 năm trước

Nếu tuân thủ tốt các "tuyệt chiêu" dưới đây, các em sẽ có được một bài thi đại học môn văn đạt kết quả rất cao, thậm chí đạt điểm tuyệt đối.

Một bài văn thực sự đạt kết quả tốt, cần đáp ứng được các yêu cầu về nội dung của đề bài(như kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận, kiến thức, phạm vi dẫn chứng…) và yêu cầu về hình thức (trình bày, diễn đạt…).

1. Nắm vững cấu trúc và mức độ của đề thi

Trong tài liệu phục vụ việc ra đề thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, ở phần II - Về cấu trúc và mức độ yêu cầu của đề thi - Bộ GD&ĐT có khuyến nghị:

"Nên chia đề thi thành nhiều phần để tiện kiểm tra về kiến thức và kĩ năng được rộng hơn và nhất là để việc chấm thi được chính xác và thuận lợi hơn. Đề thi cần ghi rõ số điểm dành cho từng phần.

Ngoài những đề yêu cầu trình bày sự cảm nhận, phân tích... liên quan đến một tác phẩm (hoặc một khía cạnh, một đoạn trích... của tác phẩm), cần có những đề tổng hợp yêu cầu vận dụng sự hiểu biết về nhiều tác phẩm.

Không nên ra những đề quá khó và nhất là cần tránh những đề thí sinh có thể sao chép tài liệu một cách dễ dàng" (trang 74).

Kì thi đại học, cao đẳng năm 2008, đối với môn Văn, Bộ GD&ĐT chủ trương vẫn tiếp tục thi đề tự luận. Việc chia nhỏ đề thi thành nhiều câu nhằm kiểm tra được nhiều phạm vi kiến thức và nhiều kĩ năng hơn.

Đề thi tuyển sinh (đề chung) vào các trường đại học và cao đẳng môn văn, theo lộ trình đổi mới giáo dục và cải tiến thi cử, đánh giá của Bộ GD&ĐT, năm 2008, về cơ bản, có kết cấu gồm 2 phần với 3 câu hỏi.

Phần chung cho tất cả thí sinh, gồm câu I và câu II. Phần tự chọn gồm câu IIIa dành cho chương trình chưa phân ban và câu IIIb dành cho chương trình phân ban thí điểm.

Thí sinh chỉ được chọn làm một trong hai câu này, không nhất thiết phải theo đúng ban mình đã theo học, nhưng không được làm cả hai câu. Trường hợp làm cả hai câu, sẽ bị hủy phần bài làm này,

a. Câu I, thường 2 điểm, nhằm kiểm tra kiến thức cơ bản, phổ thông và khái quát nhất như:

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt những đặc điểm chính về con người, cuộc đời của một nhà văn.

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt sự nghiệp văn học của một tác giả.

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt quan điểm sáng tác văn học (quan điểm nghệ thuật) của một tác giả (chỉ có ở 2 tác giả Nam Cao và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh).

- Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật của một tác giả (chỉ có ở 3 tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân và Tố Hữu).

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm.

- Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.

- Khái quát ngắn gọn giá trị tư tưởng nghệ thuật, nhất là giá trị nhân đạo, của một tác phẩm.

- Nêu hoặc phân tích ngắn gọn nhưng đặc điểm và thành tựu chính của giai đoạn văn học 1945 - 1975.

Ở câu này, mấy năm trước, đáp án của Bộ cho phép thí sinh trả lời theo hình thức gạch đầu dòng. Nhưng tôi khuyên các em không nên viết theo cách ấy vì tâm lý người chấm thi môn văn đánh giá rất thấp kiểu viết gạch đầu dòng.

b. Câu II, thường 5 điểm,hay kiểm tra năng lực cảm thụ văn xuôi, phân tích nhân vật, tác phẩm văn xuôi hoặc một vấn đề văn học sử hay lí luận văn học nào đó. Ví dụ câu 2 đề khối D năm 2007, yêu cầu phân tích vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ Tràng giang (Huy Cận).

c. Câu IIIa và IIIb, thường 3 điểm, nhằm kiểm tra năng lực cảm thụ thơ, phân tích hoặc bình giảng 1 khổ hoặc 1 đoạn thơ ngắn, như câu 3 đề khối C năm 2007, yêu cầu cảm thụ 10 dòng đầu bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.

Cũng có thể yêu cầu phân tích một hình tượng nhỏ như hình tượng ánh trăng, mảnh trăng trong Mảnh trăng cuối rừng, hình tượng rừng xà nu, cây xà nu trong Rừng xà nu.

Nếu làm tốt, các em có thể đạt điểm tuyệt đối ở câu I, nhưng để đạt được số điểm trọn vẹn ở câu II và câu IIIa, IIIb thì vô cùng khó, nếu như không muốn nói là không thể, trừ số ít thí sinh rất xuất sắc.

Ngoài ra, không loại trừ trường hợp đề thi sẽ bớt điểm số ở câu 2 hoặc câu 3 để có thêm một câu hỏi (câu 4, làm trong thời gian 18 phút) khoảng 1 điểm, nhằm phân hóa trình độ thí sinh.

Câu hỏi này sẽ khó hơn, đòi hỏi thí sinh phải có năng lực tư duy và diễn đạt. Chẳng hạn: So với trước Cách mạng, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng có biến đổi nào đáng chú ý? Vì sao Nguyễn Tuân lại tìm đến thể loại tùy bút như một điều tất yếu.

2. Xác định đầy đủ, chính xác yêu cầu của đề

Trước khi làm bài, các em cần đọc kĩ đề và xác định đầy đủ yêu cầu của đề thi về các phương diện như kiểu bài: xác định xem đề bài yêu cầu sử dụng kĩ năng nghị luận nào: trình bày, giải thích, chứng minh, bình giảng, phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng hợp đòi hỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị luận);

Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết vấn đề gì?;

Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đề đó, cần huy động và sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phù hợp và có sức thuyết phục cao nhất);

Đồng thời, các em xác định nội dung và hình thức trình bày bài viết. Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề.

Các em nên xác định yêu cầu của đề thi trong thời gian nhanh nhất, để dành thời gian làm bài. Phải cố gắng làm hết tất cả các câu trong yêu cầu của đề bài, không được bỏ sót ý nào, dù là nhỏ nhất.

Nếu bỏ 1 câu, thì 2 câu còn lại có làm tốt đến đâu đi nữa, điểm số của bài vẫn thấp hơn khi làm đủ 3 câu, dù các câu làm chưa thật tốt, thậm chí còn sơ sài.

Trong biểu điểm của Bộ GD&ĐT, trước khi phân tích, bình giảng, ngay phần giới thiệu tác phẩm và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm cũng được 0,25 điểm, mà phần này chỉ cần viết vài dòng. Các em hãy chắt chiu từng chút điểm nhỏ như thế, bởi một bài văn có điểm cao bao giờ cũng được làm nên từ những điểm số nhỏ trong từng ý, từng câu như thế.

3. Vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận

Để bài văn đạt kết quả cao, cần vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận. Các em nên tập trung rèn luyện năng lực trình bày tóm tắt 1 vấn đề văn học, năng lực cảm thụ văn học và các kiểu bài so sánh, phân tích, bình giảng văn học (nhất là phân tích văn xuôi và bình giảng thơ).

Đây là những kiểu bài thể hiện chất văn chương rõ nét nhất, và thường hay thi nhiều nhất. Các em cũng cần vận dụng nhuần nhuyễn các kiểu bài sau:

* Phương pháp làm các kiểu bài trình bày tóm tắt một vấn đề văn học.

* Phân tích văn học là kiểu bài nghị luận đem một hiện tượng văn học (tác phẩm, vấn đề) chia nhỏ ra thành từng bộ phận hay phương diện để xem xét từng phần rồi đem kết quả tổng hợp lại trong một kết luận chung.

Phân tích văn học là chỉ ra các giá trị nội dung, nghệ thuật qua các chi tiết cụ thể. Không cần và không thể phân tích mọi chi tiết. Chỉ cần chọn phân tích những chi tiết tiêu biểu nhất, nói lên tư tưởng quan trọng của nhà văn, phù hợp với chủ đề phân tích của đề bài.

Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thi là: Phân tích tác phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượng nhân vật, phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đề văn học, phân tích chi tiết nghệ thuật vànhan đề tác phẩm.

* Bình giảng văn học (đề thi thường chỉ yêu cầu bình giảng thơ): là giảng giải, đánh giá, bình phẩm về nghĩa lí, ý tứ của bài văn, lời văn, giúp cho người đọc cảm thụ và đánh giá tác phẩm văn học một cách toàn vẹn.

Bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, những từ ngữ chìa khoá, những thi nhãn, những mạch ngầm để mở đường thưởng thức văn bản, chứ không che lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật.

Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ trống, chỗ lạ hoá, khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình tượng, các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.

Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trong của bài thơ, bài văn, khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.

Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn được chặt chẽ, điều quan trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ, bài thơ. Đối với các bài thơ, đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấu trúc, liệt kê, điệp từ như Tâm tư trong tù, Việt Bắc, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh bài viết lặp lại một cách nhàm chán, tuyệt đối không được bình từng dòng, mà phải nhóm các chi tiết, hình ảnh thành một hệ thống, rồi mới giảng và bình về hệ thống ấy.

Chẳng hạn 9 dòng đầu của đoạn thơ Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), có sự lặp đi, lặp lại của điệp khúc“Đất Nước đã có…”, “Đất Nước có trong…”, “Đất Nước bắt đầu…”, “Đất Nước lớn lên…”, “Đất Nước có từ…” cho thấy nhà thơ trầm tư suy ngẫm về thời điểm ra đời của Đất Nước (gồm các dòng 1,3,9), quá trình lớn lên (dòng 4) và phạm vi tồn tại của Đất Nước (dòng 2).

Vì vậy, khi bình giảng đoạn thơ này, cần chú ý nhóm các dòng thơ 1,3,9 thành một ý, dòng 4 là một ý và dòng 2 là một ý. Từ “ngày đó” là phép thế đại từ có ý nghĩa thay thế cho các dòng 5,6,7,8, nên để hiểu được ý nghĩa dòng thơ thứ 9, cần hiểu được các dòng thơ trước đó.

4. Mở bài và kết bài nhanh, ngắn

Đã là bài văn, dù dài hay ngắn, đều phải có mở và kết bài. Cần tập trung rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài để có thể mở bài thật nhanh, kết bài thật ấn tượng.

Không nên mất quá nhiều thời gian vào việc mở và kết bài, bởi mở bài giống như một chút rượu khai vị trước bữa ăn, còn kết bài giống một món tráng miệng, thân bài mới là bữa tiệc chính cần thưởng thức.

Nên mở và kết bài ngắn, tránh dài như bài làm văn học sinh giỏi, vì bài thi đại học gần với bài thi tốt nghiệp THPT hơn là bài thi học sinh giỏi.

Trong một bài thi đại học, với đề 3 câu, các em cần phải viết đủ 3 mở bài, 3 kết bài. Ở câu 2 điểm, nên mở và kết bài khoảng 2 - 3 dòng; câu 5 điểm, nên mở và kết khoảng 5 - 7 dòng; câu 3 điểm, nên mở và kết khoảng 3 - 4 dòng. Mỗi câu, nên mở và kết bài theo một cách riêng.

Có nhiều cách mở và kết bài, nhưng các cách mở bài gián tiếp thường hay hơn, nên mang lại điểm số cao hơn. Ví dụ, với đề văn phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ, có thể có nhiều cách để mở và kết bài:

- Mở bài 1: Vốn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, truyện ngắn “Vợ nhặt” kết tinh tài năng phân tích tâm lí đặc sắc của Kim Lân, nhất là khi nhà văn thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ.

Kết bài 1: Thể hiện thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ , Kim Lân đã bộc lộ tài năng nghệ thuật độc đáo và tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, cảm động của mình.

- Mở bài 2: Suốt một đời cầm bút, Kim Lân chỉ để lại vẻn vẹn có 2 tập truyện ngắn là “Con chó xấu xí” và “Nên vợ nên chồng”. Nhưng trong văn chương, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, nên chỉ riêng truyện ngắn “Vợ nhặt” đã là niềm ao ước của nhiều người cầm bút.

Ở thiên truyện này, diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc họa vô cùng tinh tế và giàu ý nghĩa.

- Kết bài 2: Với tâm hồn của một nhà văn “thuần hậu”, “nguyên thủy”, “một lòng đi về với đất, với người” (Nguyên Hồng), Kim Lân đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ vô cùng tinh tế, chân thực, và sâu sắc. Thành công ấy vừa chứng tỏ tài năng và bản lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn, vừa góp phần giúp cho “Vợ nhặt” trở thành niềm ao ước của nhiều người cầm bút.

- Mở bài 3: “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt diệu nhất vẫn là trái tim người mẹ” (B.Sô). Vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của trái tim người mẹ và tình mẫu tử thắm thiết thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu sắc qua diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

- Kết bài 3: Kim Lân đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ với tất cả nỗi nghẹn ngào, tình yêu thương và lòng mong mỏi của một người mẹ nhân từ, đồng thời thức tỉnh nơi tâm hồn mỗi người sức mạnh của tình nghĩa và đạo lí, cũng như ý nghĩa hạnh phúc lớn lao của tình mẫu tử thiêng liêng, đúng như một nhà văn từng khẳng định: “Sung sướng thay cho những ai có một bà mẹ nhân từ”.

Các mở và kết bài 1 là trực tiếp, mở và kết bài 2, 3 là gián tiếp. Phần in đậm và nghiêng chính là vấn đề, là nội dung mà đề bài yêu cầu phải giải quyết.

Chỉ cần bám sát yêu cầu của đề bài, cùng với cách diễn đạt khéo léo và một vài câu danh ngôn ý nghĩa, là các em có thể viết nên một mở bài theo kiểu gián tiếp vừa nhanh, ngắn, lại vừa đúng và hay.

Trong trường hợp quá bí, các em có thể lấy ngay việc nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm làm mở bài, tất nhiên phải nêu một cách thật khéo léo và tinh tế.

Quan trọng nhất là mở bài phải bám sát được yêu cầu của đề, giới hạn được nội dung và phạm vi của vấn đề cần giải quyết; kết bài cần phải khái quát lại và phát triển, nâng cao hơn vấn đề đã giải quyết ở thân bài. Không làm được điều đó, thì dù mở và kết bài có ngắn, nhanh và khéo léo đến đâu chăng nữa cũng trở nên vô ích.

5. Tìm ý (luận điểm) nhanh, đúng, đủ và sắp xếp triển khai ý hợp lý

Bài văn hay, đạt điểm cao, thậm chí điểm tuyệt đối là bài văn có một hệ thống ý đầy đủ, sáng tạo, chặt chẽ, đáp ứng toàn diện yêu cầu của đề, được thể hiện qua một hình thức trình bày và diễn đạt chính xác, trong sáng, rõ ràng, tinh tế, khéo léo, có hình ảnh và cảm xúc.

Các giám khảo chấm văn cũng phải so sánh giữa hệ thống ý của bài văn và hệ thống ý mà Bộ đề ra trong đáp án và biểu điểm chấm thi để cho điểm. Vì vậy, khi giải quyết một đề văn, điều quan trọng nhất là phải tìm ra ý.

Thí sinh nào tìm được hệ thống ý đầy đủ hơn, sâu sắc và mới mẻ hơn, sắp xếp và trình bày ý mạch lạc, chặt chẽ hơn, thì bài làm của thí sinh đó có điểm số cao hơn.

Quá trình tìm ý (luận điểm) cho bài văn, thực chất là đi ngược lại quá trình sáng tác của nhà văn. Khi sáng tác, trước hết nhà văn có ý tưởng trong đầu, sau đó thể hiện ý tưởng ấy qua hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật của tác phẩm, mà hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật này lại được xây dựng từ các chi tiết nghệ thuật.

Ngược lại, khi làm văn, các em nên xuất phát từ chi tiết nghệ thuật để phân tích hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật của tác phẩm, từ đó tìm ra ý (luận điểm) theo yêu cầu của đề bài. Khác với nhà văn, sau khi tìm ra ý, các em còn phải diễn đạt hệ thống ý đó thành một bài văn hoàn chỉnh.

Để tìm ra ý cần dựa vào yêu cầu của đề bài, kết hợp với kiến thức mà các em đã học, hoặc đã đọc. Sau khi đã tìm ra các ý, cần xác định xem ý nào là ý chính, có vai trò quan trọng, để tiến hành phân tích kĩ lưỡng; ý nào là ý phụ, chỉ cần phân tích ngắn gọn hoặc lướt qua; cũng như mối quan hệ qua lại giữa các ý trong hệ thống, đồng thời sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí và có ý nghĩa nhất.

Chẳng hạn khi phân tích nhân vật Huân trong “Mùa lạc”, cần làm nổi bật các ý và trình tự sắp xếp các ý như sau:

- Vẻ đẹp ngoại hình với nhiều nét hoàn mĩ tới lí tưởng.

- Tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, tài hoa (thổi tiêu, vẽ tranh, “tay hề đại tài”)

- Đẹp trai, có tài, nhưng Huân không kiêu ngạo, mà có tâm hồn nhân hậu, biết yêu thương, chia sẻ, cảm thông.

- Trải qua năm tháng, chiến tranh, gian khổ, Huân có một tâm hồn trong sáng, nghị lực phi thường và lí tưởng sống cao đẹp.

- Không chỉ cao đẹp trong lí tưởng chung, nhiệm vụ chung, Huân còn hiện lên rất cao đẹp trong tình yêu riêng tư.

- Qua nhân vật Huân, Nguyễn Khải đã gửi gắm nhiều quan niệm riêng về con người và cuộc sống.

Xin nhắc lại rằng, nói như người xưa, ý là “bột”, bài văn là “hồ”, còn quá trình diễn đạt ý thành bài là “gột”. “Có bột mới gột nên hồ”.

fghgfshh
fghgfshh
Trả lời 13 năm trước

Nếu muốn viết được bài văn đạt điểm cao, ngoài việc tổ chức luận điểm sáng rõ mạch lạc, còn cần có kết cấu sáng tạo, từ mở bài đến kết bài.

Mỗi bài văn cần có luận điểm rõ ràng
Muốn đạt hiệu quả cao môn Văn trong kỳ thi tốt nghiệp, thí sinh phải nắm chắc được kết cấu bài thi với 2 câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
Đối với câu nghị luận xã hội, thí sinh phải nắm chắc kỹ năng làm nghị luận xã hội, biết tổ chức ý trong bài. Học sinh cần chú ý cách tổ chức luận điểm như sau:
- Luận điểm phải khoa học, chính xác
- Luậ̣n điểm phải rõ ràng, mạch lạc
- Luận điểm phải có tính hệ thống
- Luận điểm phải sâu sắc mới mẻ (đề̀̀ xuất được ý kiến mới)
Ví du: Khi đề bài yêu cầu bàn luận một ngạn ngữ Hi Lạp:
"Cái rễ của học hành thì cay đắng nhưng quả của nó thì rất ngọt ngào"
Người viết phải đưa ra được các luận điểm sau:
1.Vai trò của việc học tập đối với con người
2. Quá trình học tập bao giờ cũng gian khổ khó khăn nhưng người ta sẽ gặt hái thành công
3. Có thể hưởng thụ quả tri thức ngọt ngào mà không cần học tập kiên trì không?
Sau khi có luận điểm rồi thì các em phải có dẫn chứng thực tế dựa vào vốn sống về xã hội, trải nghiệm xã hội để thuyết phục người đọc về nguyên nhân xảy ra, thực trạng hiện nay như thế nào, nêu các giải pháp. Các em nên dẫn chứng thực tế nhiều hơn dẫn chứng văn học.
Có kết cấu sáng tạo
Còn ở phần Nghị luận văn học, các em phải nắm rõ xuất xứ, chủ đề tác phẩm văn học ra đời trong hoàn cảnh nào. Đối với văn xuôi thì nắm vững cốt truyện, nhân vật, chi tiết, nội dung nghệ thuật, những sáng tạo độc đáo trong tác phẩm.
Nếu muốn viết được bài văn đạt điểm cao, ngoài việc tổ chức luận điểm sáng rõ mạch lạc, còn cần có kết cấu sáng tạo, từ mở bài đến kết bài. Khi bàn luận hoặc phân tích có đưa ra được những ý kiến mới, đòi hỏi người viết có cảm thụ tinh tê ́và khả năng tư duy độc lập, chọn được dẫn chứng tiêu biểu, trúng vấn đề, có lời bình hay, phát hiện độc đáo.
Ngoài ra, cũng phải chú ý việc triển khai ý khi phân tích tác phẩm văn xuôi phải mạch lạc, lôgic, từ khái quát đến cụ thể. Các ý có sự liên kết chặt chẽ.
Phân tích sâu rồi mới mở rộng so sánh với các tác phẩm tương đồng. Nên đa dạng hóa câu văn, kết hợp câu nghị luận với câu nghi vấn, câu khẳng định, câu biểu cảm, câu văn giàu hình ảnh... Phải huy động vốn từ phong phú.
Với tác phẩm thơ, học sinh cần nắm chắc hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, ví dụ: Với bài thơ Tây Tiến, các em phải hiểu bài này viết về đơn vị bộ đội nào, hoạt động ở đâu, hoàn cảnh thực tế họ trải qua gian khổ như thế nào. Điều đặc biệt, chính tác giả bài thơ là người trải nghiệm, người cầm bút, điều này đã giúp cho tác giả sáng tạo nên kiệt tác về người lính rất chân thực, sống động và bất tử.
Tác phẩm thơ khác với văn xuôi. Văn xuôi thiên về chi tiết, nội dung cốt chuyện còn ở thơ là hệ thống hình tượng và ngôn từ, hình ảnh.
Khi phân tích đoạn thơ các em nên đặt trong chỉnh thể tác phẩm và phải nắm được ý chủ đạo, phân tích mối quan hệ giữa đoạn thơ và nghệ thuật song song để làm nổi bật tư tưởng nội dung chính của đoạn thơ.
Dù phân tích văn xuôi hay thơ thì các em nên nhớ để vị trí của nhà văn trong tiến trình văn học. Ví dụ: Đối với nhà văn Tô Hoài thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ được trao giải nhất vì cái mới nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo, tố cáo giai cấp thống trị mà nhà văn đã miêu tả nhân vật trong tính cách đa chiều.
Đối với đề thi Văn “mở” như năm vừa qua cách ra đề mới, tạo khoảng rộng cho chủ thể sáng tạo. Các em không nhất thiết phải theo thứ tự A,B,C giải thích vấn đề tại sao, như thế nào. Tất nhiên, về mặt cốt lõi bên trong phải tuân theo lôgic nhưng làm mới vấn đề đó bằng cách đặt một câu chuyện nhập vào bài luận, từ vấn đề đó mình bàn luận ra.
Ví dụ: Viết về tình yêu quê hương thì các em có thể bắt đầu từ: Tôi nhận được một bức thư của một người bạn nước ngoài đã 5 năm không trở về quê hương. Từ đó, mình viết tình yêu quê hương quan trọng đến mức nào đối với mỗi con người.
Lưu ý: Bài văn đạt điểm cao phải có hình thức đẹp: Kết cấu sáng. Chữ sạch đẹp, rõ ràng. Viết hoa, đúng qui cách, đúng luật chính tả, dẫn chứng luôn để trong ngoặc kép...

Mỗi bài văn cần có luận điểm rõ ràng

Muốn đạt hiệu quả cao môn Văn trong kỳ thi tốt nghiệp, thí sinh phải nắm chắc được kết cấu bài thi với 2 câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học.

Đối với câu nghị luận xã hội, thí sinh phải nắm chắc kỹ năng làm nghị luận xã hội, biết tổ chức ý trong bài. Học sinh cần chú ý cách tổ chức luận điểm như sau:

- Luận điểm phải khoa học, chính xác

- Luậ̣n điểm phải rõ ràng, mạch lạc

- Luận điểm phải có tính hệ thống

- Luận điểm phải sâu sắc mới mẻ (đề̀̀ xuất được ý kiến mới)

Ví du: Khi đề bài yêu cầu bàn luận một ngạn ngữ Hi Lạp:

"Cái rễ của học hành thì cay đắng nhưng quả của nó thì rất ngọt ngào"

Người viết phải đưa ra được các luận điểm sau:

1.Vai trò của việc học tập đối với con người

2. Quá trình học tập bao giờ cũng gian khổ khó khăn nhưng người ta sẽ gặt hái thành công

3. Có thể hưởng thụ quả tri thức ngọt ngào mà không cần học tập kiên trì không?

Sau khi có luận điểm rồi thì các em phải có dẫn chứng thực tế dựa vào vốn sống về xã hội, trải nghiệm xã hội để thuyết phục người đọc về nguyên nhân xảy ra, thực trạng hiện nay như thế nào, nêu các giải pháp. Các em nên dẫn chứng thực tế nhiều hơn dẫn chứng văn học.

Có kết cấu sáng tạo

Còn ở phần Nghị luận văn học, các em phải nắm rõ xuất xứ, chủ đề tác phẩm văn học ra đời trong hoàn cảnh nào. Đối với văn xuôi thì nắm vững cốt truyện, nhân vật, chi tiết, nội dung nghệ thuật, những sáng tạo độc đáo trong tác phẩm.

Nếu muốn viết được bài văn đạt điểm cao, ngoài việc tổ chức luận điểm sáng rõ mạch lạc, còn cần có kết cấu sáng tạo, từ mở bài đến kết bài. Khi bàn luận hoặc phân tích có đưa ra được những ý kiến mới, đòi hỏi người viết có cảm thụ tinh tê ́và khả năng tư duy độc lập, chọn được dẫn chứng tiêu biểu, trúng vấn đề, có lời bình hay, phát hiện độc đáo.

Ngoài ra, cũng phải chú ý việc triển khai ý khi phân tích tác phẩm văn xuôi phải mạch lạc, lôgic, từ khái quát đến cụ thể. Các ý có sự liên kết chặt chẽ.

Phân tích sâu rồi mới mở rộng so sánh với các tác phẩm tương đồng. Nên đa dạng hóa câu văn, kết hợp câu nghị luận với câu nghi vấn, câu khẳng định, câu biểu cảm, câu văn giàu hình ảnh... Phải huy động vốn từ phong phú.

Với tác phẩm thơ, học sinh cần nắm chắc hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, ví dụ: Với bài thơ Tây Tiến, các em phải hiểu bài này viết về đơn vị bộ đội nào, hoạt động ở đâu, hoàn cảnh thực tế họ trải qua gian khổ như thế nào. Điều đặc biệt, chính tác giả bài thơ là người trải nghiệm, người cầm bút, điều này đã giúp cho tác giả sáng tạo nên kiệt tác về người lính rất chân thực, sống động và bất tử.

Tác phẩm thơ khác với văn xuôi. Văn xuôi thiên về chi tiết, nội dung cốt chuyện còn ở thơ là hệ thống hình tượng và ngôn từ, hình ảnh.

Khi phân tích đoạn thơ các em nên đặt trong chỉnh thể tác phẩm và phải nắm được ý chủ đạo, phân tích mối quan hệ giữa đoạn thơ và nghệ thuật song song để làm nổi bật tư tưởng nội dung chính của đoạn thơ.

Dù phân tích văn xuôi hay thơ thì các em nên nhớ để vị trí của nhà văn trong tiến trình văn học. Ví dụ: Đối với nhà văn Tô Hoài thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ được trao giải nhất vì cái mới nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo, tố cáo giai cấp thống trị mà nhà văn đã miêu tả nhân vật trong tính cách đa chiều.

Đối với đề thi Văn “mở” như năm vừa qua cách ra đề mới, tạo khoảng rộng cho chủ thể sáng tạo. Các em không nhất thiết phải theo thứ tự A,B,C giải thích vấn đề tại sao, như thế nào. Tất nhiên, về mặt cốt lõi bên trong phải tuân theo lôgic nhưng làm mới vấn đề đó bằng cách đặt một câu chuyện nhập vào bài luận, từ vấn đề đó mình bàn luận ra.

Ví dụ: Viết về tình yêu quê hương thì các em có thể bắt đầu từ: Tôi nhận được một bức thư của một người bạn nước ngoài đã 5 năm không trở về quê hương. Từ đó, mình viết tình yêu quê hương quan trọng đến mức nào đối với mỗi con người.

Lưu ý: Bài văn đạt điểm cao phải có hình thức đẹp: Kết cấu sáng. Chữ sạch đẹp, rõ ràng. Viết hoa, đúng qui cách, đúng luật chính tả, dẫn chứng luôn để trong ngoặc kép...

jdhgjfg
jdhgjfg
Trả lời 13 năm trước

Nếu tuân thủ tốt các "tuyệt chiêu" dưới đây, các bạn sẽ có được một bài thi đại học môn văn đạt kết quả rất cao, thậm chí đạt điểm tuyệt đối.

Một bài văn thực sự đạt kết quả tốt, cần đáp ứng được các yêu cầu về nội dung của đề bài (như kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận, kiến thức, phạm vi dẫn chứng…) và yêu cầu về hình thức (trình bày, diễn đạt…).

Cần nắm vững cấu trúc và mức độ của đề thi:

Trong tài liệu phục vụ việc ra đề thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, ở phần II - Về cấu trúc và mức độ yêu cầu của đề thi - Bộ GD&ĐT có khuyến nghị:

"Nên chia đề thi thành nhiều phần để tiện kiểm tra về kiến thức và kĩ năng được rộng hơn và nhất là để việc chấm thi được chính xác và thuận lợi hơn. Đề thi cần ghi rõ số điểm dành cho từng phần.

Ngoài những đề yêu cầu trình bày sự cảm nhận, phân tích... liên quan đến một tác phẩm (hoặc một khía cạnh, một đoạn trích... của tác phẩm), cần có những đề tổng hợp yêu cầu vận dụng sự hiểu biết về nhiều tác phẩm.

Không nên ra những đề quá khó và nhất là cần tránh những đề thí sinh có thể sao chép tài liệu một cách dễ dàng" (trang 74).

Kì thi đại học, cao đẳng năm 2008, đối với môn Văn, Bộ GD&ĐT chủ trương vẫn tiếp tục thi đề tự luận. Việc chia nhỏ đề thi thành nhiều câu nhằm kiểm tra được nhiều phạm vi kiến thức và nhiều kĩ năng hơn.

Đề thi tuyển sinh (đề chung) vào các trường đại học và cao đẳng môn văn, theo lộ trình đổi mới giáo dục và cải tiến thi cử, đánh giá của Bộ GD&ĐT, năm 2008, về cơ bản, có kết cấu gồm 2 phần với 3 câu hỏi.

Phần chung cho tất cả thí sinh, gồm câu I và câu II. Phần tự chọn gồm câu IIIa dành cho chương trình chưa phân ban và câu IIIb dành cho chương trình phân ban thí điểm.

Thí sinh chỉ được chọn làm một trong hai câu này, không nhất thiết phải theo đúng ban mình đã theo học, nhưng không được làm cả hai câu. Trường hợp làm cả hai câu, sẽ bị hủy phần bài làm này,

a. Câu I, thường 2 điểm, nhằm kiểm tra kiến thức cơ bản, phổ thông và khái quát nhất như:

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt những đặc điểm chính về con người, cuộc đời của một nhà văn.

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt sự nghiệp văn học của một tác giả.

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt quan điểm sáng tác văn học (quan điểm nghệ thuật) của một tác giả (chỉ có ở 2 tác giả Nam Cao và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh).

- Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật của một tác giả (chỉ có ở 3 tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân và Tố Hữu).

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm.

- Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.

- Khái quát ngắn gọn giá trị tư tưởng nghệ thuật, nhất là giá trị nhân đạo, của một tác phẩm.

- Nêu hoặc phân tích ngắn gọn nhưng đặc điểm và thành tựu chính của giai đoạn văn học 1945 - 1975.

Ở câu này, mấy năm trước, đáp án của Bộ cho phép thí sinh trả lời theo hình thức gạch đầu dòng. Nhưng tôi khuyên các em không nên viết theo cách ấy vì tâm lý người chấm thi môn văn đánh giá rất thấp kiểu viết gạch đầu dòng.

b. Câu II, thường 5 điểm, hay kiểm tra năng lực cảm thụ văn xuôi, phân tích nhân vật, tác phẩm văn xuôi hoặc một vấn đề văn học sử hay lí luận văn học nào đó. Ví dụ câu 2 đề khối D năm 2007, yêu cầu phân tích vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ Tràng giang (Huy Cận).

c. Câu IIIa và IIIb, thường 3 điểm, nhằm kiểm tra năng lực cảm thụ thơ, phân tích hoặc bình giảng 1 khổ hoặc 1 đoạn thơ ngắn, như câu 3 đề khối C năm 2007, yêu cầu cảm thụ 10 dòng đầu bài thơTống biệt hành của Thâm Tâm.

Cũng có thể yêu cầu phân tích một hình tượng nhỏ như hình tượng ánh trăng, mảnh trăng trongMảnh trăng cuối rừng, hình tượng rừng xà nu, cây xà nu trong Rừng xà nu.

Lương Cao Cường
Lương Cao Cường
Trả lời 13 năm trước

Vài mẹo nhỏ giúp các em đạt điểm cao môn Văn

Các em nên mở bài và kết bài nhanh, ngắn, sau đó tìm ý (luận điểm) nhanh, đúng, đủ và sắp xếp triển khai ý hợp lý.

1.Mở bài và kết bài nhanh, ngắn

Đã là bài văn, dù dài hay ngắn, đều phải có mở và kết bài. Cần tập trung rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài để có thể mở bài thật nhanh, kết bài thật ấn tượng.
Không nên mất quá nhiều thời gian vào việc mở và kết bài, bởi mở bài giống như một chút rượu khai vị trước bữa ăn, còn kết bài giống một món tráng miệng, thân bài mới là bữa tiệc chính cần thưởng thức.
Nên mở và kết bài ngắn, tránh dài như bài làm văn học sinh giỏi, vì bài thi đại học gần với bài thi tốt nghiệp THPT hơn là bài thi học sinh giỏi.
Trong một bài thi đại học, với đề 3 câu, các em cần phải viết đủ 3 mở bài, 3 kết bài. Ở câu 2 điểm, nên mở và kết bài khoảng 2 - 3 dòng; câu 5 điểm, nên mở và kết khoảng 5 - 7 dòng; câu 3 điểm, nên mở và kết khoảng 3 - 4 dòng. Mỗi câu, nên mở và kết bài theo một cách riêng.
Có nhiều cách mở và kết bài, nhưng các cách mở bài gián tiếp thường hay hơn, nên mang lại điểm số cao hơn. Ví dụ, với đề văn phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ, có thể có nhiều cách để mở và kết bài:
- Mở bài 1: Vốn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, truyện ngắn “Vợ nhặt” kết tinh tài năng phân tích tâm lí đặc sắc của Kim Lân, nhất là khi nhà văn thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ.
Kết bài 1: Thể hiện thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ , Kim Lân đã bộc lộ tài năng nghệ thuật độc đáo và tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, cảm động của mình.
- Mở bài 2: Suốt một đời cầm bút, Kim Lân chỉ để lại vẻn vẹn có 2 tập truyện ngắn là “Con chó xấu xí” và “Nên vợ nên chồng”. Nhưng trong văn chương, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, nên chỉ riêng truyện ngắn “Vợ nhặt” đã là niềm ao ước của nhiều người cầm bút.
Ở thiên truyện này, diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc họa vô cùng tinh tế và giàu ý nghĩa.
- Kết bài 2: Với tâm hồn của một nhà văn “thuần hậu”, “nguyên thủy”, “một lòng đi về với đất, với người” (Nguyên Hồng), Kim Lân đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ vô cùng tinh tế, chân thực, và sâu sắc. Thành công ấy vừa chứng tỏ tài năng và bản lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn, vừa góp phần giúp cho “Vợ nhặt” trở thành niềm ao ước của nhiều người cầm bút.
- Mở bài 3: “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt diệu nhất vẫn là trái tim người mẹ” (B.Sô). Vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của trái tim người mẹ và tình mẫu tử thắm thiết thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu sắc qua diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
- Kết bài 3: Kim Lân đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ với tất cả nỗi nghẹn ngào, tình yêu thương và lòng mong mỏi của một người mẹ nhân từ, đồng thời thức tỉnh nơi tâm hồn mỗi người sức mạnh của tình nghĩa và đạo lí, cũng như ý nghĩa hạnh phúc lớn lao của tình mẫu tử thiêng liêng, đúng như một nhà văn từng khẳng định: “Sung sướng thay cho những ai có một bà mẹ nhân từ”.
Các mở và kết bài 1 là trực tiếp, mở và kết bài 2, 3 là gián tiếp. Phần in đậm và nghiêng chính là vấn đề, là nội dung mà đề bài yêu cầu phải giải quyết.
Chỉ cần bám sát yêu cầu của đề bài, cùng với cách diễn đạt khéo léo và một vài câu danh ngôn ý nghĩa, là các em có thể viết nên một mở bài theo kiểu gián tiếp vừa nhanh, ngắn, lại vừa đúng và hay.
Trong trường hợp quá bí, các em có thể lấy ngay việc nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm làm mở bài, tất nhiên phải nêu một cách thật khéo léo và tinh tế.
Quan trọng nhất là mở bài phải bám sát được yêu cầu của đề, giới hạn được nội dung và phạm vi của vấn đề cần giải quyết; kết bài cần phải khái quát lại và phát triển, nâng cao hơn vấn đề đã giải quyết ở thân bài. Không làm được điều đó, thì dù mở và kết bài có ngắn, nhanh và khéo léo đến đâu chăng nữa cũng trở nên vô ích.
5. Tìm ý (luận điểm) nhanh, đúng, đủ và sắp xếp triển khai ý hợp lý
Bài văn hay, đạt điểm cao, thậm chí điểm tuyệt đối là bài văn có một hệ thống ý đầy đủ, sáng tạo, chặt chẽ, đáp ứng toàn diện yêu cầu của đề, được thể hiện qua một hình thức trình bày và diễn đạt chính xác, trong sáng, rõ ràng, tinh tế, khéo léo, có hình ảnh và cảm xúc.
Các giám khảo chấm văn cũng phải so sánh giữa hệ thống ý của bài văn và hệ thống ý mà Bộ đề ra trong đáp án và biểu điểm chấm thi để cho điểm. Vì vậy, khi giải quyết một đề văn, điều quan trọng nhất là phải tìm ra ý.
Thí sinh nào tìm được hệ thống ý đầy đủ hơn, sâu sắc và mới mẻ hơn, sắp xếp và trình bày ý mạch lạc, chặt chẽ hơn, thì bài làm của thí sinh đó có điểm số cao hơn.
Quá trình tìm ý (luận điểm) cho bài văn, thực chất là đi ngược lại quá trình sáng tác của nhà văn. Khi sáng tác, trước hết nhà văn có ý tưởng trong đầu, sau đó thể hiện ý tưởng ấy qua hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật của tác phẩm, mà hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật này lại được xây dựng từ các chi tiết nghệ thuật.
Ngược lại, khi làm văn, các em nên xuất phát từ chi tiết nghệ thuật để phân tích hệ thống hình tượng và thế giới nghệ thuật của tác phẩm, từ đó tìm ra ý (luận điểm) theo yêu cầu của đề bài. Khác với nhà văn, sau khi tìm ra ý, các em còn phải diễn đạt hệ thống ý đó thành một bài văn hoàn chỉnh.
Để tìm ra ý cần dựa vào yêu cầu của đề bài, kết hợp với kiến thức mà các em đã học, hoặc đã đọc. Sau khi đã tìm ra các ý, cần xác định xem ý nào là ý chính, có vai trò quan trọng, để tiến hành phân tích kĩ lưỡng; ý nào là ý phụ, chỉ cần phân tích ngắn gọn hoặc lướt qua; cũng như mối quan hệ qua lại giữa các ý trong hệ thống, đồng thời sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí và có ý nghĩa nhất.
Chẳng hạn khi phân tích nhân vật Huân trong “Mùa lạc”, cần làm nổi bật các ý và trình tự sắp xếp các ý như sau:
- Vẻ đẹp ngoại hình với nhiều nét hoàn mĩ tới lí tưởng.
- Tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, tài hoa (thổi tiêu, vẽ tranh, “tay hề đại tài”)
- Đẹp trai, có tài, nhưng Huân không kiêu ngạo, mà có tâm hồn nhân hậu, biết yêu thương, chia sẻ, cảm thông.
- Trải qua năm tháng, chiến tranh, gian khổ, Huân có một tâm hồn trong sáng, nghị lực phi thường và lí tưởng sống cao đẹp.
- Không chỉ cao đẹp trong lí tưởng chung, nhiệm vụ chung, Huân còn hiện lên rất cao đẹp trong tình yêu riêng tư.
- Qua nhân vật Huân, Nguyễn Khải đã gửi gắm nhiều quan niệm riêng về con người và cuộc sống.
Xin nhắc lại rằng, nói như người xưa, ý là “bột”, bài văn là “hồ”, còn quá trình diễn đạt ý thành bài là “gột”. “Có bột mới gột nên hồ”.
------------------

(Sưu tầm)

Thầy Cường, 31 tuổi, GV Văn, nhận gia sư môn Văn lớp: 6-12 & ôn thi ĐH, Phương pháp mới. KHẲNG ĐỊNH bằng chất lượng: 03 buổi đầu Miễn phí 100%. LH: Thầy Cường: 0904858337, Y.M: cuong_pnh & E-mail: cuong.edu@gmail.com

ha
ha
Trả lời 12 năm trước

Môn Ngữ văn: Bố trí thời gian hợp lý

Theo kinh nghiệm của nhiều thầy cô cho biết, các thí sinh thậm chí là học sinh giỏi đều hay mắc phải lỗi về bố trí thời gian không hợp lý nên khi hết giờ vẫn chưa làm xong hoặc cuống cuồng viết vội vài dòng kết luận cụt ngủn. Và những bài làm như thế sẽ bị đánh giá thấp dẫn đến kết quả không khả quan.

Để tránh được lỗi đó, sĩ tửphải đọc kỹ đề thi một lượt, xác định điểm và thời gian làm cho từng câu. Đối với phần hỏi về tác giả, tác phẩm (2 điểm), nên làm trong khoảng 30 phút. Bởi vì đây là phần kiểm tra kiến thức cơ bản, thí sinh cần học thuộc và nắm chắc những ý chính mà câu hỏi yêu cầu, tránh lan man, dài dòng.
Đối với câu nghị luận cũng chỉ dành từ 30 – 45 phút để triển khai ý và viết, còn lại dành thời gian để làm câu tự luận vì đây là phần chiếm số lượng điểm khá lớn. Đừng quên lập dàn ý sơ giản (hoặc chi tiết) trước khi viết bài để tránh thiếu ý, trình tự các ý lộn xộn và lạc đề.
Tiếp đến cần xác định đầy đủ yêu cầu của đề thi về các phương diện như kiểu bài: xác định xem đề bài yêu cầu sử dụng kĩ năng nghị luận nào: trình bày, giải thích, chứng minh, bình giảng, phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng hợp đòi hỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị luận).
Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết vấn đề gì? Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đề đó, cần huy động và sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phù hợp và có sức thuyết phục cao nhất). Đồng thời, hãy xác định nội dung và hình thức trình bày bài viết. Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề.
Nên xác định yêu cầu của đề thi trong thời gian nhanh nhất, để dành thời gian làm bài. Phải cố gắng làm hết tất cả các câu trong yêu cầu của đề bài, không được bỏ sót ý nào, dù là nhỏ nhất.
Để bài văn đạt kết quả cao, cần vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận. Nên tập trung rèn luyện năng lực trình bày tóm tắt một vấn đề văn học, năng lực cảm thụ văn học và các kiểu bài so sánh, phân tích, bình giảng văn học (nhất là phân tích văn xuôi và bình giảng thơ).
Đây là những kiểu bài thể hiện chất văn chương rõ nét nhất, và thường hay thi nhiều nhất. Thí sinh cũng cần vận dụng nhuần nhuyễn các kiểu bài sau:
Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thi là: Phân tích tác phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượng nhân vật, phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đề văn học, phân tích chi tiết nghệ thuật và nhan đề tác phẩm.
Còn bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, những từ ngữ chìa khoá, những thi nhãn, những mạch ngầm để mở đường thưởng thức văn bản, chứ không che lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật. Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ trống, chỗ lạ hoá, khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình tượng, các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.
Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trong của bài thơ, bài văn, khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.
Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn được chặt chẽ, điều quan trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ, bài thơ. Đối với các bài thơ, đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấu trúc, liệt kê, điệp từ như Tâm tư trong tù, Việt Bắc, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh bài viết lặp lại một cách nhàm chán, tuyệt đối không được bình từng dòng, mà phải nhóm các chi tiết, hình ảnh thành một hệ thống, rồi mới giảng và bình về hệ thống ấy.
Chẳng hạn, 9 dòng đầu của đoạn thơ Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), có sự lặp đi, lặp lại của điệp khúc“Đất Nước đã có…”, “Đất Nước có trong…”, “Đất Nước bắt đầu…”, “Đất Nước lớn lên…”, “Đất Nước có từ…” cho thấy nhà thơ trầm tư suy ngẫm về thời điểm ra đời của Đất Nước (gồm các dòng 1,3,9), quá trình lớn lên (dòng 4) và phạm vi tồn tại của Đất Nước (dòng 2).
Vì vậy, khi bình giảng đoạn thơ này, cần chú ý nhóm các dòng thơ 1,3,9 thành một ý, dòng 4 là một ý và dòng 2 là một ý. Từ “ngày đó” là phép thế đại từ có ý nghĩa thay thế cho các dòng 5,6,7,8, nên để hiểu được ý nghĩa dòng thơ thứ 9, cần hiểu được các dòng thơ trước đó.

Đối với câu nghị luận cũng chỉ dành từ 30 – 45 phút để triển khai ý và viết, còn lại dành thời gian để làm câu tự luận vì đây là phần chiếm số lượng điểm khá lớn. Đừng quên lập dàn ý sơ giản (hoặc chi tiết) trước khi viết bài để tránh thiếu ý, trình tự các ý lộn xộn và lạc đề.

Tiếp đến cần xác định đầy đủ yêu cầu của đề thi về các phương diện như kiểu bài: xác định xem đề bài yêu cầu sử dụng kĩ năng nghị luận nào: trình bày, giải thích, chứng minh, bình giảng, phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng hợp đòi hỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị luận).

Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết vấn đề gì? Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đề đó, cần huy động và sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phù hợp và có sức thuyết phục cao nhất). Đồng thời, hãy xác định nội dung và hình thức trình bày bài viết. Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề.

Nên xác định yêu cầu của đề thi trong thời gian nhanh nhất, để dành thời gian làm bài. Phải cố gắng làm hết tất cả các câu trong yêu cầu của đề bài, không được bỏ sót ý nào, dù là nhỏ nhất.

Để bài văn đạt kết quả cao, cần vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận. Nên tập trung rèn luyện năng lực trình bày tóm tắt một vấn đề văn học, năng lực cảm thụ văn học và các kiểu bài so sánh, phân tích, bình giảng văn học (nhất là phân tích văn xuôi và bình giảng thơ).

Đây là những kiểu bài thể hiện chất văn chương rõ nét nhất, và thường hay thi nhiều nhất. Thí sinh cũng cần vận dụng nhuần nhuyễn các kiểu bài sau:

Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thi là: Phân tích tác phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượng nhân vật, phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đề văn học, phân tích chi tiết nghệ thuật và nhan đề tác phẩm.

Còn bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, những từ ngữ chìa khoá, những thi nhãn, những mạch ngầm để mở đường thưởng thức văn bản, chứ không che lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật. Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ trống, chỗ lạ hoá, khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình tượng, các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.

Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trong của bài thơ, bài văn, khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.

Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn được chặt chẽ, điều quan trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ, bài thơ. Đối với các bài thơ, đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấu trúc, liệt kê, điệp từ như Tâm tư trong tù, Việt Bắc, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh bài viết lặp lại một cách nhàm chán, tuyệt đối không được bình từng dòng, mà phải nhóm các chi tiết, hình ảnh thành một hệ thống, rồi mới giảng và bình về hệ thống ấy.

Chẳng hạn, 9 dòng đầu của đoạn thơ Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), có sự lặp đi, lặp lại của điệp khúc“Đất Nước đã có…”, “Đất Nước có trong…”, “Đất Nước bắt đầu…”, “Đất Nước lớn lên…”, “Đất Nước có từ…” cho thấy nhà thơ trầm tư suy ngẫm về thời điểm ra đời của Đất Nước (gồm các dòng 1,3,9), quá trình lớn lên (dòng 4) và phạm vi tồn tại của Đất Nước (dòng 2).

Vì vậy, khi bình giảng đoạn thơ này, cần chú ý nhóm các dòng thơ 1,3,9 thành một ý, dòng 4 là một ý và dòng 2 là một ý. Từ “ngày đó” là phép thế đại từ có ý nghĩa thay thế cho các dòng 5,6,7,8, nên để hiểu được ý nghĩa dòng thơ thứ 9, cần hiểu được các dòng thơ trước đó.