Truyện cổ Grim

[b]Ba anh em [/b] Một người có ba con trai, cả cơ nghiệp có một cái nhà. Người con nào cũng muốn sau này, khi bố mất, nhà sẽ về mình. Ông bố thì con nào cũng quí, thành ra rất phân vân, không biết tính sao cho các con vừa lòng. Bán nhà đi thì có tiền chia cho chúng, nhưng là của hương hỏa nên ông không muốn bán. Sau ông nghĩ được một kế, bảo các con: - Chúng mày hãy đi chu du thiên hạ, thử gan thử sức một phen. Mỗi đứa học lấy một nghề. Đứa nào giỏi nhất, bố cho cái nhà. Ba người con lấy làm thích lắm. Người con cả muốn trở thành thợ đóng móng ngựa, người thứ hai muốn làm thợ cạo, còn người em út muốn làm thầy dạy võ. Ba anh em hẹn nhau ngay về, rồi chia tay ra đi. Cả ba người đều gặp được thầy giỏi truyền cho biết hết bí quyết nhà nghề. Người đóng móng ngựa được làm việc cho nhà vua và nghĩ bụng: "Phen này, chắc nhà không thoát khỏi tay mình". Người thợ cạo được sửa tóc cho những nhà quyền quí nên chắc mẩm là được nhà. Anh học võ bị đấm nhiều miếng nhưng vẫn cắn răng chịu, nghĩ bụng: "Nếu sợ bị đấm thì bao giờ được nhà?". Đến hẹn, ba anh em trở về nhà. Nhưng chẳng ai biết làm thế nào để thi thố tài nghệ của mình, bèn ngồi bàn với nhau. Đương lúc ấy chợt có một chú thỏ băng qua cánh đồng. Anh thợ cạo reo lên: "May quá, thật là vừa đúng dịp". Anh liền cầm đĩa xà phòng, đánh bọt, đợi thỏ ta đến gần, anh vừa chạy theo vừa quét xà phòng, cạo râu thỏ mà không hề làm thỏ xầy da chút nào. Người bố khen: "Khá lắm! Nếu hai thằng kia không làm được trò gì hay hơn thế thì cho mày cái nhà". Một lát sau có một cỗ xe ngựa chạy qua như bay. Anh đóng móng ngựa nói: "Bố xem tài con nhé!". Anh liền chạy đuổi theo cỗ xe, tháo bốn móng sắt của một con ngựa và thay luôn bốn móng mới trong khi ngựa vẫn phi đều. Người bố lại khen: "Mày giỏi lắm! Mày chẳng kém gì em mày. Không biết cho đứa nào cái nhà đây!". Lúc bấy giờ người con út mới nói: - Thưa bố, bây giờ đến lượt con, bố cho con thử tài. Vừa lúc ấy trời bắt đầu mưa. Anh ta rút ngay gươm múa kín trên đầu, người không dính một giọt nước nào. Trời mưa ngày càng to, anh ta múa càng hăng, áo quần vẫn khô như đứng nơi kín đáo. Người bố ngạc nhiên quá reo lên: - Con thật là tài nhất! Thôi con được cái nhà rồi. Hai anh cũng phục người em út lắm và đồng ý với cha. Ba anh em rất mực thương nhau nên ở cùng một nhà, mỗi người làm nghề của mình. Họ tài khéo nên kiếm được nhiều tiền. Họ sống sung sướng như vậy mãi cho đến lúc tuổi già, một người ốm chết, hai người kia buồn rầu cũng chết theo. Cả ba anh em vừa khéo vừa giỏi, lại vừa quí mến lẫn nhau, đều được chôn chung một mộ.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Chim sơn ca[/b] Xưa có một người trước khi đi xa từ biệt ba con gái, hỏi các con muốn lấy quà gì. Cô cả muốn lấy ngọc, cô thứ hai xin kim cương, cô út nói: - Thưa bố, con chỉ thích được một con chim sơn ca vừa nhảy nhót vừa hót véo von. Bố bảo: - Được, nếu có thì bố sẽ mang về cho con. Rồi bố hôn ba con ra đi. Đến ngày về, ông bố mua được đủ ngọc và kim cương cho hai con lớn. Còn chim sơn ca nhảy nhót và hót véo von, thì ông tìm khắp nơi mà chẳng thấy. Ông lấy làm buồn lắm vì cô út là con cưng của ông. Ông đi qua một khu rừng trong đó có một tòa lâu đài lộng lẫy. Bên lâu đài có một cái cây. Tít trên ngọn cây, ông thấy một con chim sơn ca vừa nhảy vừa hót véo von. Ông mừng quá kêu lên: - Chà! Chú mày hiện ra thật đúng lúc. Ông bèn gọi đầy tớ bảo trèo cây bắt chim. Nhưng khi ông vừa bước lại gần bỗng có một con sư tử nhảy chồm lên, quẫy người gầm, làm chuyển động cả cành lá. Sư tử hét lên: - Ta sẽ ăn thịt đứa nào lấy trộm con chim sơn ca nhảy nhót hót véo von của ta. Người bố thưa: - Bẩm ông, tôi không biết là chim của ông. Ông cho tôi chuộc tội bằng vàng khối. Xin ông tha chết cho tôi. Sư tử nói: - Người muốn sống phải hứa về nhà gặp cái gì trước tiên phải làm cho ta cái đó làm của riêng. Nếu ngươi chịu thì ta tha chết mà lại tặng thêm con chim cho cô con gái cưng của ngươi nữa. Người bố từ chối đáp: - Nhỡ ra khi tôi về nhà gặp ngay con gái út tôi thì biết làm thế nào? Cháu yêu tôi lắm, bao giờ cũng chạy ra đón tôi. Nhưng người đầy tớ sợ bảo: - Thưa ông, có thể ông gặp đúng cô út, nhưng biết đâu lại chẳng gặp con mèo, con chó gì đó. Người bố nghe xuôi tai, cầm lấy con chim sơn ca nhảy nhót, hót véo von, và hứa về nhà gặp gì trước tiên sẽ cho sư tử. Ông ta về tới nhà thì gặp ngay đúng con gái út cưng nhất. Cô ta chạy lại hôn bố, vuốt ve bố. Cô thấy bố mang về một con chim sơn ca nhảy nhót, hót véo von, thì mừng mừng rỡ. Bố thì chẳng vui mừng chút nào, khóc lóc bảo con: - Con yêu của bố ơi, bố mua cho con con chim nhỏ này bằng giá rất đắt. Bố đã phải hứa đem con cho một con sư tử. Nó mà được con là nó xé xác con ra ăn thịt mất. Rồi ông kể lại đầu đuôi câu chuyện, bảo con chớ có đi, thôi thì cũng đành liều, muốn ra sao thì ra. Cô gái an ủi ông và nói: - Bố yêu của con ơi, bố đã hứa thì phải làm. Bố để con đi đến chỗ ấy làm cho sư tử nguôi giận. Sau đó con sẽ trở về, không can gì đâu. Sớm hôm sau, cô hỏi đường, từ biệt bố, ung dung đi vào rừng. Thật ra con sư tử là một ông hoàng bị phù phép, ban ngày thì bản thân và kẻ hầu người hạ đều là sư tử cả, đến đêm lại hiện nguyên hình người. Cô gái được tiếp đón rất niềm nở và đưa vào cung điện. Đêm đến, sư tử hiện thành một người rất đẹp. Lễ cưới tổ chức linh đình. Hai vợ chồng sống với nhau rất vui vẻ, ngày ngủ đêm thức. Một hôm, chàng bảo: - Mai ở nhà em có lễ cưới đấy. Chị cả lấy chồng. Nếu em thích đi thì để bảo bầy sư tử đưa đi. Nàng thưa vâng vì cũng muốn về thăm bố luôn thể. Bầy sư tử đi theo nàng. Ở nhà thấy nàng về thì mừng quá vì ai cũng tưởng là nàng đã bị sư tử xé xác ăn thịt từ lâu rồi. Nàng kể chuyện đã lấy được chồng đẹp ra sao, mọi việc đều tốt lành. Nàng ở lại nhà suốt thời gian cưới rồi lại về rừng. Đến lúc chị hai đi lấy chồng, nàng lại được mời về dự lễ cưới bảo sư tử: - Lần này em không muốn đi một mình. Chàng phải đi cùng em. Sư tử đáp là như thế rất nguy vì nếu bị ánh sáng của đèn, lửa, chiếu phải thì chàng sẽ biến ngay ra chim bồ câu, bay suốt bảy năm trời ròng rã. Nàng bảo: - Không sao chàng ạ. Chàng cứ đi với em. Em nhất quyết giữ cho chàng, tránh cho chàng khỏi bị bất kỳ ánh sáng gì chiếu phải. Hai vợ chồng cùng ra đi, mang theo cả con nhỏ. Tới nơi, nàng cho làm cái buồng tường thật dày, ánh sáng không lọt vào được. Chàng phải ngồi trong đó, trong khi đèn nến đám cưới thắp lên ở ngoài. Nhưng cửa làm bằng gỗ tươi bị nứt một kẽ nhỏ, không ai biết. Đám cưới rất linh đình, ở nhà thờ về có nhiều đèn đuốc. Khi đi qua phòng, có một tia sáng nhỏ như sợi tóc lọt vào chiếu phải người hoàng tử. Hoàng tử biến hình liền. Vợ vào tìm chàng chẳng thấy, chỉ thấy một con chim bồ câu trắng. Chim bồ câu bảo nàng: - Trong bảy năm ròng rã, anh sẽ phải bay đi khắp bốn phương trời. Cứ bảy bước anh sẽ nhả xuống một giọt máu đào và để rơi xuống một chiếc lông trắng để đánh giấu đường đi. Em cứ theo vết anh đi thì sẽ giải thoát được cho anh. Nói rồi bồ câu bay ra cửa. Nàng đi theo vết chim. Cứ bảy bước lại có một giọt máu đào và một chiếc lông trắng rơi xuống chỉ đường. Nàng đi mãi khắp chân trời góc bể không ngoái cổ nhìn quanh, không nghỉ ngơi. Bảy năm dài đằng đẵng sắp qua, nàng lấy làm mừng là sắp được giải thoát nhưng thật ra thì còn lâu. Rồi bỗng nàng không thấy lông và máu đào rơi xuống nữa. Nàng ngẩng lên nhìn thấy chim bồ câu đã biến mất. Nàng nghĩ bụng thiên hạ chắc không ai cứu giúp được mình, liền lên mặt trời hỏi: - Mặt trời ơi, ánh mặt trời lọt vào các khe ngách, vượt mọi đỉnh cao, mặt trời có nhìn thấy con bồ câu trắng nào bay qua không? Mặt trời đáp: - Không, nàng ạ. Ta chẳng thấy chim bồ câu nào. Nhưng để ta cho nàng một cái hộp nhỏ, khi nào cần lắm hãy mở ra. Nàng cảm tạ mặt trời rồi lại đi cho đến tối. Trăng lên, nàng hỏi: - Trăng ơi trăng tỏ suốt đêm, trăng đi qua khắp đồng ruộng núi rừng, trăng có thấy con chim bồ câu trắng nào bay qua không? Trăng đáp: - Không, nàng ạ. Ta chẳng thấy chim bồ câu nào. Nhưng thôi để ta biếu nàng một quả trứng, khi nào cùng lắm hãy mở ra. Nàng cảm ơn trăng, lại đi đến lúc gió đêm thổi. Nàng hỏi gió: - Gió ơi, gió thổi khắp ngọn cây cành lá, gió có thấy con chim bồ câu trắng nào bay qua không? Gió đêm đáp: - Không, ta chẳng thấy con chim bồ câu nào. Nhưng để ta hỏi ba ngọn gió khác, may ra chúng có thấy chăng. Gió đông và gió tây không thấy gì. Gió nam bảo: - Ta có nhìn thấy chim bồ câu trắng bay về Hồng hải. Nó lại biến thành sư tử vì hạn bảy năm đã hết. Sư tử hiện đương đánh nhau với một con rồng, rồng đó là một nàng công chúa bị phù phép. Gió đêm bèn bảo nàng: - Ta khuyên nàng nên đi tới Hồng hải. Ở bờ bên phải có nhiều gốc sậy to. Nàng đếm đến cây thứ mười một thì đem về để đánh rồng. Như vậy thì sư tử có thể thắng được rồng, cả hai lại hiện nguyên hình thành người. Sau đó nàng hãy quay nhìn lại, sẽ thấy chim ưng ngồi bên bờ Hồng hải, nàng hãy cùng người yêu cưỡi lên lưng nó. Chim sẽ mang hai vợ chồng nàng vượt bể về nhà. Ta cho nàng một hạt dẻ. Chim bay đến giữa bể thì nàng ném hạt xuống, hạt sẽ nảy mầm. Một cây dẻ lớn mọc từ dưới nước lên làm chỗ cho chim đậu để nghỉ. Nếu chim không được nghỉ ngơi thì nó không đủ sức mang hai người đi đâu. Nếu nàng quên vứt hạt giẻ thì nó quẳng hai người xuống bể. Nàng lại đi và thấy mọi việc xảy ra đúng như lời gió đêm nói. Nàng đếm gốc sậy ở bờ bể, chặt lấy cây thứ mười một để đánh rồng. Sư tử quả là thắng rồng. Lập tức cả sư tử và rồng đều lại hiện nguyên hình người. Nhưng công chúa vừa mới được giải khỏi phù phép, biến từ rồng thành người liền nắm tay Hoàng tử kéo lên cưỡi chim ưng cùng đi mất. Tội nghiệp cô gái tha phương lại bị bỏ rơi. Nàng ngồi khóc. Mãi sau nàng mới lấy lại can đảm và nghĩ bụng: - Gió đưa đến đâu, ta đi đến đấy, gà còn gáy ta còn đi, đi cho đến lúc tìm thấy chàng. Rồi nàng đi mãi, đi mãi đến tòa lâu đài là nơi Hoàng tử và công chúa ở. Tới nơi nàng nghe nói là sắp tổ chức lễ cưới hai người. Nàng liền mở hộp của mặt trời cho: trong hộp có một cái áo sáng như mặt trời. Nàng lấy áo ra mặc rồi đi vào lâu đài. Tất cả mọi người kể cả cô dâu đều trố mắt ra nhìn. Cô dâu thích chiếc áo quá, mong sao lấy được làm áo cưới. Cô dâu hỏi nàng có bán áo không. Nàng trả lời: - Tôi không bàn áo lấy tiền bạc, chỉ đổi lấy xương thịt thôi. Cô dâu hỏi ý nàng định nói gì. Nàng đáp: - Tôi xin ngủ một đêm trong phòng chú rể. Cô dâu không muốn thế, nhưng lại thích chiếc áo. Cô cũng thuận, nhưng bắt người hầu cẩn thận cho Hoàng tử uống thuốc ngủ. Đêm đến, chàng đã ngủ, người ta dẫn nàng vào phòng. Nàng ngồi bên giường bảo: - Em theo chàng đã bảy năm tròn, em đã đi tìm mặt trời, mặt trăng và bốn ngọn gió để hỏi tin chàng, em đã giúp chàng thắng được con rồng, chàng nỡ lòng nào lại quên em? Hoàng tử ngủ say, chỉ cảm thấy như có tiếng gió rì rào bên ngoài trong đám lá thông. Đến sáng, người ta dẫn nàng ra khỏi phòng. Thế là nàng mất không chiếc áo vàng. Mất công vô ích, nàng ra cánh đồng cỏ ngồi khóc. Nàng chợt nhớ đến quả trứng của mặt trăng cho. Nàng đập trứng ra thì thấy một con gà mái ấp và mười hai con gà con tuyền bằng vàng, chạy tung tăng kêu chiếp chiếp, rồi lại rúc vào cánh mẹ, nom thật đẹp. Nàng liền đứng dậy xua gà đến cánh đồng cỏ cho đến lúc cô dâu nhìn qua cửa sổ thấy đàn gà con thích quá, xuống hỏi mua. Nàng đáp: - Tôi không bán gà lấy tiền bạc, chỉ đổi lấy xương thịt thôi. Tôi xin ngủ trong buồng chú rể một đêm. Cô dâu đồng ý, lại định đánh lừa nàng như tối hôm trước. Nhưng khi Hoàng tử đi nằm thì chàng hỏi người hầu xem tiếng rì rào đêm trước là gì. Người hầu kể lại hết: hắn phải cho chàng uống thuốc ngủ vì có một cô gái đáng thương đã lén vào ngủ trong phòng và đêm nay hắn sẽ lại phải cho chàng uống thuốc ngủ nữa. Hoàng tử bảo: - Ngươi hãy đổ thuốc ngủ xuống bên giường ta. Đến đêm, người ta lại dẫn nàng vào phòng chàng. Nàng vừa bắt đầu kể lại cuộc tình duyên đau khổ thì chàng nhận ra ngay tiếng nói của người vợ hiền. Chàng ngồi nhỏm dậy kêu lên: - Bây giờ anh mới thật được giải khỏi phù phép. Anh đã sống như trong giấc mơ vì công chúa kia phù phép anh để anh quên nàng. Đến đêm, chàng và nàng lén ra khỏi lâu đài vì họ sợ bố công chúa là một người phù thủy. Hai vợ chồng cưỡi chim ưng, vượt bể Hồng hải, tới quãng giữa thì nàng thả hạt dẻ xuống. Một cây dẻ lớn liền mọc lên làm chỗ đậu nghỉ ngơi cho chim. Chim đưa họ về nhà, họ lại gặp con, con đã khôn lớn đẹp đẽ. Họ sống với nhau sung sướng cho đến khi chết.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Đôi giày ủng da trâu [/b] Một người lính đã chẳng sợ gì thì cũng chẳng bận tâm đến việc gì cả. Xưa có một người lính như vậy bị thải hồi. Bác ta không học được nghề gì nên không kiếm tiền được, đành đi lang thang ăn xin thiên hạ. Trên vai bác khoác chiếc áo đi mưa, chân bác đi đôi giầy ủng kỵ mã bằng da trâu, tất cả của cải chỉ còn lại có thế. Một hôm, bác cứ đi thẳng cánh đồng, đi miết chẳng để ý gì đến đường đất, đi mãi đến một khu rừng. Bác không biết mình ở đâu, chỉ thấy có một người đang ngồi trên một gốc cây đã đẵn. Người ấy ăn mặc sang trọng, mặc bộ đồ đi săn màu xanh. Bác chìa tay ra bắt, ngồi xuống cỏ bên người ấy và duỗi chân ra. Bác bảo người đi săn: - Tôi thấy đôi giầy ủng của ông quả là đẹp, đánh bóng nhoáng. Nhưng ông phải đi đây đi đó nhiều như tôi thì chẳng được mấy của nả. Ông cứ xem ủng của tôi bằng da trâu, ròng rã lâu rồi mà chỗ nào cũng đi qua được đấy. Một lúc sau, bác lính đứng dậy bảo: - Tôi không ở lâu hơn được nữa, cái đói nó thúc tôi đi. Này ông anh có đôi giầy ủng bóng ơi, đường này đi đâu ấy nhỉ? Người đi săn đáp: - Chính tôi cũng không biết bác ạ. Tôi lạc trong rừng. Bác lính nói: - Thì ra anh cũng như tôi. Những người cùng cảnh ngộ thường hay kết bạn với nhau. Thôi ta ở sát cánh với nhau, cùng nhau đi mãi cho đến đêm. Bác lính lại nói: - Ta không ra khỏi rừng được, nhưng tôi thấy ở đằng xa có ánh đèn le lói, có thể tìm cái gì ăn được đấy. Họ tìm ra một chiếc nhà bằng đá. Gõ cửa thì có một bà già ra mở. Bác lính bảo: - Chúng tôi tìm chỗ ngủ đêm, muốn kiếm chút gì ăn cho đỡ đói, vì bụng đã lép kẹp như chiếc bị nát. Bà già đáp: - Các bác không ở đây được đâu. Đây là nhà bọn cướp, khôn hồn thì các bác cao chạy xa bay trước khi chúng về, kẻo chúng mà thấy thì đi đời. Bác lính đáp: - Thì cũng đến thế mà thôi. Đã hai hôm nay, chưa được miếng nào, bị giết ở đây hay chết đói trong rừng thì cũng như nhau. Thôi tôi cứ vào. Người đi săn không muốn theo vào nhưng bác lính cứ cầm tay kéo vào. - Anh bạn nối khố ơi. Cứ vào đây, chắc đâu đã toi mạng ngay. Bà già thương hại dặn họ: - Các bác hãy chui vào sau lò. Nếu bọn chúng ăn còn gì thừa, thì khi chúng ngủ, ta sẽ tuồn vào cho. Họ vừa chui vào ngồi một xó, thì có mười hai tên cướp ầm ầm bước vào. chúng ngồi vào bàn có thức ăn đã dọn sẵn và ăn một cách bỉ ổi. Bà già bưng một miếng thịt quay kếch xù vào, bọn cướp ăn rất ngon lành. Mùi món ăn thơm nức mũi, bác lính bảo người đi săn: - Tôi không nhịn được nữa đâu, tôi ra ngồi bên cùng ăn đây. Người đi săn giữ tay bác lính lại: - Bác làm thế là chết cả nút đấy. Nhưng người lính bắt đầu ho lớn tiếng. Bọn cướp nghe thấy quẳng cả dao và đĩa đi, nhảy xổ đến tìm thấy hai người ở sau lò. Chúng kêu lên: - Ha ha! Ra hai ngài ngồi ở trong xó này. Các ngài định kiếm chác gì ở đây? Các ngài được cử đến đây do thám phải không? Được, đợi đấy, để bọn tớ cho các ngài học bay ở một cành cây khô nhé. Bác lính nói: - Ấy, lịch sự một tí nào. Tớ đói lắm, cho tớ ăn đã, rồi sau các cậu muốn làm gì tớ thì làm. Bọn cướp ngạc nhiên. Tên đầu sỏ bảo: - Ồ, tao thấy mày không sợ. Được lắm. Cho mày ăn, nhưng sau thì mày phải chết đấy! Bác lính nói: - Rồi đâu sẽ có đó! Rồi bác ngồi vào bàn, đưa tay cắt thịt quay một cách gan dạ. Bác gọi người đi săn: - Nào ông anh giầy ủng bóng, lại đây chén đi kẻo rồi sẽ đói như tôi. Ở nhà không có được món thịt quay ngon như ở đây đâu. Nhưng người đi săn không chịu ăn. Bọn cướp ngạc nhiên nhìn người lính bảo: - Tên này thật là không biết làm khách tí nào. Sau đó bác nói: - Ăn thì quả là ngon đấy, giờ lấy cho tớ cái gì uống cho ngon. Tên đầu sỏ, đương lúc cao hứng, cũng đồng ý, gọi bà già: - Mụ xuống cầm lấy lên đây một chai rượu vào loại ngon nhất. Bác lính mở nút chai đánh bốp, rồi mang chai lại bảo người đi săn: - Này ông anh ơi chú ý nhé, rồi ông anh sẽ còn kinh ngạc nữa. Giờ đây tôi xin nâng cốc, chúc sức khỏe tất cả mọi người. Nói rồi, bác vung chai trên đầu bọn cướp mà hét: - Chúng bay sẽ sống hết, nhưng mồm há hốc ra, tay phải giơ lên không. Rồi bác tu một hơi ra trò. Bác nói chưa dứt lời thì cả bọn cướp ngồi đờ ra như tượng đá, mồm há hốc, tay phải giơ lên không. Người đi săn bảo bác lính: - Rõ rồi, đúng là anh còn nhiều thuật lạ. nhưng thôi ta về nhà đi. - Ấy ấy. Ông bạn nối khố của tôi ơi, làm gì mà đi sớm quá thế. Ta đã đánh bại được kẻ thù rồi thì cũng phải vơ vét một chuyến đã chứ. Bạn chúng ngồi đực ra kia, mồm há hốc vì kinh ngạc. Nhưng chúng không dám nhúc nhích cho đến khi tôi cho phép. Ta lại đây đánh chén đi. Bà già lại phải đi lấy một chai rượu loại ngon nhất nữa. Bác lính đánh chén đủ no đến ba ngày rồi mới chịu đứng dậy. Mãi đến lúc trời sáng, bác mới nói: - Giờ đã đến lúc ta nhổ trại. Bà già phải chỉ đường gần nhất ra tỉnh để ta đi cho chóng. Khi hai người ra đến tỉnh, bác lính đi gặp bạn đồng đội cũ bảo: - Tôi tìm thấy trong rừng một ổ toàn đồ chết treo. Ta hãy đến quét sạch nó đi! Bác lính đi đầu, dẫn họ và bảo người đi săn: - Anh phải trở lại xem khi bọn mình tóm cẳng chúng rồi, chúng sẽ đú đởn như thế nào. Bác bố trí cho cả bọn đứng quanh lũ cướp rồi bác cầm chai rượu uống một hơi, vung chai trên đầu chúng, kêu: - Tất cả chúng bay phải sống! Ngay lúc đó, chúng lại cử động, nhưng chúng bị quật xuống, chân tay bị trói lại. Rồi bác lính bảo ném chúng như ném bị lên một chiếc xe. - Hãy chở chúng đến nhà tù ngay đi. Người đi săn gọi riêng một người trong bọn ra và giao làm một việc. Bác lính bảo: - Này ông anh giầy ủng bóng, chúng ta may mắn đã tóm gọn được bọn cướp và ăn uống thỏa thuê. Giờ ta lại cứ bình tĩnh mà đóng cái vai trò lính bị tụt hậu, lẽo đẽo theo sau. Gần đến tỉnh, bác thấy cổng thành người xúm đông chen chúc nhau, tiếng reo vui mừng, người ta vung vẩy cành lá xanh. Bác lại thấy cả đội quân cận vệ tiến đến. Bác ngạc nhiên lắm, hỏi người đi săn: - Thế là nghĩa lý gì? Người kia đáp: - Thế anh không biết là vua đi xa nước đã lâu, ngày hôm nay trở về, nên thiên hạ đi đón à? Bác lính hỏi: - Thế vua đâu mà tôi không thấy! Người đi săn đáp: - Vua đây. Ta là vua ta đã cho báo tin trước là ta về. Người ấy hé mở áo đi săn ra, để lộ áo bào nhà vua. Bác lính sợ hãi quỳ xuống xin tha tội vì trước đây bác không biết là vua nên đã đối xử như kẻ ngang hàng và xưng hô như vậy. Nhưng vua chìa tay ra bắt tay bác bảo: - Ngươi là một người lính can trường đã cứu sống ta. Ngươi sẽ không phải chịu cơ cực nữa, ta nhất định chăm sóc ngươi, khi nào ngươi thèm ăn một bữa thịt quay như ở nhà bọn cướp thì cứ việc đến bếp hoàng gia. Còn khi nào người muốn nâng cốc chúc ai, thì phải đợi ta cho phép đã.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Bạch Tuyết và Hồng Hoa[/b] Ngày xưa có một người đàn bà góa sống cô quạnh trong một túp lều gianh. Trước cửa là một cái vườn có hai cây hoa hồng, một cây ra hoa đỏ, một cây ra hoa trắng. Bà có hai cô con gái, trông đẹp như hai cây hồng. Vì vậy bà đặt tên hai con là Bạch Tuyết và Hồng Hoa. Hai cô bé rất ngoan ngoãn, hay làm, trần gian thực hiếm có. Bạch Tuyết dịu dàng, thùy mị hơn Hồng Hoa. Hồng Hoa hay chạy nhảy ngoài đồng, hái hoa, bắt bướm. Còn Bạch Tuyết thì luôn ở nhà với mẹ, hoặc giúp việc nội trợ, hoặc đọc sách cho mẹ nghe. Hai chị em yêu nhau lắm, đi đâu cũng dắt tay nhau. Khi Bạch Tuyết nói: - Chị em chúng ta không rời nhau... Thì Hồng Hoa nói tiếp: - ...suốt đời. Bà mẹ lại nói thêm: - Hai chị em có gì cũng phải chia nhau nhé. Hai chị em thường vào rừng hái quả dại. Thú rừng thân mật đến hai chị em, không đụng chạm đến hai em. Thỏ ăn lá trong lòng bàn tay hai em. Hoẵng gặm cỏ bên cạnh hai em. Hươu nhảy nhót gần hai em. Chim trên cành hót vui tai hai em. Hai em không bao giờ bị nạn. Khi nào nhỡ muộn không về được, thì hai em nằm sát nhau trên thảm rêu, ngủ lại trong rừng đến sáng, mẹ biết vậy nên cũng chẳng lo ngại gì. Bạch Tuyết và Hồng Hoa quét tước nhà cửa sạch sẽ lắm, nhìn vào thật thích mắt. Mùa hè thì Hồng Hoa làm công việc nội trợ, sáng nào cũng đặt trước giường mẹ một bó hoa trong đó có một bông hoa hồng trắng và một bông hoa hồng đỏ hái ở hai cây hồng của nhà. Mùa đông thì Bạch Tuyết đốt lửa và móc nồi lên bếp lửa. Nồi bằng đồng đánh sáng nhoáng như vàng. Tối đến, khi tuyết xuống, thì mẹ lại bảo: - Bạch Tuyết ơi, con ra cài then cửa lại. Rồi ba mẹ con ngồi bên lửa. Mẹ đeo kính, lấy quyển sách to ra đọc. Hai con vừa xe chỉ vừa nghe. Một chú cừu con nằm bên, đằng sau có một con chim gáy đậu, đầu rúc vào cánh. Một buổi tối, mẹ con đang quây quần êm ái như thế, thì có tiếng gõ cửa. Mẹ bảo: - Hồng Hoa, con chạy mau ra mở cửa, chắc có khách bộ hành tìm chỗ trú đêm đấy. Hồng Hoa ra mở cửa, tưởng là thấy một người nghèo khổ. Nhưng không, một con gấu thò đầu to kệch và đen xì vào. Em hét lên một tiếng, lùi lại. Đồng thời cừu con kêu be be, chim gáy vỗ cánh và Bạch Tuyết trốn vào sau giường mẹ. Gấu nói: - Đừng sợ, tôi không làm gì đâu, tôi rét cóng, chỉ muốn sưởi nhờ một tí thôi. Bà mẹ bảo gấu: - Tội nghiệp, lại gần lửa mà sưởi, cẩn thận kéo cháy lông nhé. Rồi bà gọi con: - Bạch Tuyết, Hồng Hoa lại đây, gấu không làm gì các con đâu, nó không có ý xấu đâu. Hai em chạy lại, rồi dần dần cừu con và chim gáy hết sợ cũng đến. Gấu nói: - Các em rũ tuyết ở lưng xuống hộ tôi. Hai em đi lấy chổi quét lông cho gấu. Gấu nằm gần lửa, kêu gừ gừ ra vẻ khoái lắm. Chẳng mấy chốc hai em hết sợ, bắt đầu đùa nghịch với người khách ngờ nghệch. Hai em giật giật lông gấu, để chân lên lưng gấu, lăn gấu xuống đất, hoặc lấy cành cây quật gấu; hễ gấu gừ gừ, hai em lại cười khanh khách. Gấu cứ để hai em nghịch, nhưng khi hai em nghịch quá thì gấu bảo: - Bạch Tuyết, Hồng Hoa để cho anh sống với. Hai em đừng đánh chết người yêu của hai em nhé. Khi cả nhà đi ngủ, bà mẹ bảo gấu: - Gấu cứ nằm bên lửa mà sưởi cho ấm kẻo ở ngoài lạnh giá. Trời vừa tảng sáng thì hai em mở cửa cho gấu ra, gấu đạp tuyết vào rừng. Từ đó, tối nào đúng giờ ấy gấu cũng đến nhà nằm bên bếp lửa và để cho trẻ tha hồ trêu mình. Cả nhà thân với gấu, chờ cho con vật lông đen đến rồi mới cài then cửa. Mùa xuân trở lại, cây cỏ xanh tươi. Một hôm gấu bảo Bạch Tuyết: - Bây giờ anh phải đi. Mùa hè này anh không thể đến đây được, em ạ. Bạch Tuyết hỏi: - Anh đi đâu, anh gấu thân yêu? - Anh phải vào rừng giữ của kẻo những thằng lùn tai ác ăn trộm mất. Mùa đông, khi đất có băng phủ, thì bọn lùn phải chịu ở dưới đất, không nhoi lên được, nhưng nay mặt trời sưởi mềm đất, thì chúng lại nhoi lên tìm cách ăn trộm của anh; cái gì đã vào tay chúng, chúng cất vào sào huyệt của chúng thì khó lòng mà lấy lại được. Bạch Tuyết buồn rầu vì phải từ giã gấu. Lúc em mở then cửa cho gấu ra, gấu vướng phải móc cửa, hơi trầy da. Em nhìn thấy hình như có vàng sáng nhoáng dưới da gấu nhưng em không chắc lắm. Gấu rảo bước rồi khuất bóng sau rừng. Cách đấy ít lâu, mẹ sai hai con gái vào rừng kiếm củi. Hai em trông thấy một cái cây to ai đã hạ xuống và có vật gì nhảy nhót hết chỗ này đến chỗ kia trong đám cỏ gần gốc cây. Hai em lại gần, nhận ra một thằng lùn, mặt già khọm, bộ râu bạc dài vướng vào keo cây, nhảy nhót như một chó con bị xích, không sao thoát được. Nó quắc đôi mắt đỏ ngầu nhìn hai em, thét rằng: - Sao chúng bay cứ đứng đực đấy ra mà nhìn, không đến cứu tao? Hồng Hoa hỏi: - Bác đã làm gì đến nỗi thế? Thằng lùn đáp: - Đồ ngu, mày lại còn thóc mách, tao muốn bổ cây này lấy củi nhỏ đun bếp. Tao không dùng củi to, củi to làm cháy mất món ăn. Chúng tao ăn nhỏ nhẻ chứ đâu có ngốn như đồ tham ăn tục uống chúng mày. Tao đã chêm nêm được rồi, nhưng không ngờ nêm trơn quá, thình lình tuột ra mất. Gỗ ập lại nhanh như chớp, tao không kịp rút chòm râu bạc đẹp đẽ ra, nên tao bị giam ở đây. Thế mà chúng bay còn cười, đồ nhãi còn hơi sữa, đồ ngu ngốc không biết xấu mặt. Hai em cố hết sức giúp thằng lùn nhưng không thể gỡ râu nó ra được. Hồng Hoa nói: - Để tôi đi gọi người đến. Thằng lùn hộc lên: - Đồ điên! Ai cần? Có hai chúng mày đã là quá lắm rồi. Chúng bay không nghĩ ra cách gì khác nữa à? Bạch Tuyết nói: - Bác đừng sốt ruột, tôi sẽ có cách cứu bác. Rồi em lấy kéo nhỏ ở túi ra, cắt ngọn râu thằng lùn. Được thoát nạn, nó đi lấy một cái bị đầy vàng ở đám rễ cây và càu nhàu: - Đồ mất dạy! Chúng bay cắt mất một mẩu râu đẹp của ông. Quỉ sứ sẽ làm tội chúng mày. Rồi nó đeo bị vàng lên vai, đi thẳng, không thèm nhìn hai em. Sau đó ít lâu, Bạch Tuyết và Hồng Hoa đi câu cá ăn. Khi đến gần bờ suối, hai em trông thấy cái gì như một con châu chấu to đang muốn nhảy nhót như muốn đâm xuống nước. Hai em chạy lại thì nhận ra thằng lùn trước. Hồng Hoa hỏi: - Bác làm sao đây? Bác muốn nhảy xuống suối à? Thằng lùn gào lên: - Tao đâu có ngu thế. Mày mở mắt ra mà trông, con cá khốn nạn này nó muốn lôi tao xuống sông đấy. Nguyên thằng lùn đang ngồi câu cá, bỗng không may bị gió cuốn râu mắc vào dây câu. Một con cá to cắn câu, thằng lùn yếu sức không lôi nổi con cá lên, con cá khỏe hơn kéo thằng lùn xuống. Nó bám lấy cỏ lấy sậy, nhưng không ăn thua. Lúc nó sắp bị cá lôi xuống thì hai em đến kịp, giữ được nó lại. Hai em gỡ cho râu nó, nhưng không ăn thua, vì râu cuốn chặt vào dây câu. Chỉ còn cách là lấy kéo cắt một đoạn râu nữa. Thằng lùn thấy thế kêu om lên: - Đồ ranh con! Chúng bay làm nhơ nhuốc mặt người ta thế à! Ở đằng kia, chúng bay đã cắt râu tao, bây giờ chúng bay lại cắt đoạn râu đẹp nhất của tao, làm tao không dám để anh em trông thấy mặt nữa. Tao cầu cho chúng bay phải chạy cho đến mòn gót giầy. Rồi nó đi lấy túi ngọc trai để trong đám sậy và không nói thêm nửa lời, lẩn sau một hòn đá. Cách đó ít lâu, mẹ sai hai con gái ra tỉnh mua kim chỉ và băng. Con đường qua một bãi hoang rải rác có những tảng đá to. Hai cô bé thấy một con chim to liệng trên đầu mình hồi lâu, rồi xà xuống bên một tảng đá. Tức thì có tiếng kêu oe óe thảm thiết. Hai cô chạy đến thì sợ quá vì thấy con phượng hoàng đã quặp chặt lấy thằng lùn mà hai cô đã nhẵn mặt. Chim định tha nó đi. Hai cô bé níu chặt lấy thằng lùn, co kéo mãi làm cho con chim phải buông mồi ra. Nhưng khi hết sợ thì thằng lùn lại nhè mồm ra mắng hai em: - Đồ chúng bay vụng quá, không biết nhẹ tay hơn một chút. Kéo mạnh quá làm cho chiếc áo mỏng của người ta rách tan tành như thế này à. Rồi nó cắp túi ngọc của nó, len lỏi qua đá vào hang. Hai em đã quen với thói bạc bẽo của nó rồi nên không để ý, lên đường ra tỉnh mua bán. Lúc trở về, hai em lại qua bãi hoang, thì bắt gặp thằng lùn đang đổ những viên ngọc ra một chỗ đất sạch, vì nó không ngờ có người đi qua đó muộn thế. Dưới ánh nắng chiều hôm, ngọc lóng lánh muôn sắc. Hai em đứng lại xem. Thằng lùn mắng: - Chúng bay đứng đực ra đấy làm gì? Mặt nó vốn bềnh bệch nay đỏ lên vì tức giận. Nó toan chửi rủa nữa thì bỗng có tiếng gầm gừ kinh hồn, rồi một con gấu đen ở rừng đi ra. Thằng lùn hoảng hồn chồm dậy, định trốn về hang, nhưng không kịp vì gấu đã tới ngay bên. Nó sợ quá van lạy gấu: - Lạy ngài, xin ngài tha cho con, con sẽ biếu tất cả châu báu của con là những viên ngọc đẹp kia. Xin ngài để cho con sống, ngài ăn thịt kẻ nhỏ bé gầy gò như con thật chẳng bõ dính mồm. Ngài xơi thịt hai con ranh kia thì hơn: thịt chúng mềm như thịt cun cút vậy. Nhưng gấu không biết nghe, tát cho thằng quái gian ác một cái chết tươi. Hai cô bé chạy trốn, nhưng gấu bảo: - Bạch Tuyết, Hông Hoa ơi, đừng sợ, chờ anh đi cùng với. Hai em nhận ra tiếng gấu bèn đứng lại. Khi gấu đến gần hai em thì bộ lông gấu bỗng rơi xuống, gấu biến thành một chàng thanh niên đẹp trai mặc áo toàn vàng. Chàng nói: - Anh là hoàng tử. Thằng lùn kia đã lấy của cải của anh, rồi phù phép cho anh hóa ra gấu, phải lang thang trong rừng cho đến khi nó chết mới được giải thoát. Thế là ác giả ác báo. Bạch Tuyết lấy Hoàng tử và Hồng Hoa lấy em hoàng tử. Rồi bốn người chia nhau của cải thu thập được ở trong hang thằng lùn. Bà mẹ già sống lâu, yên vui gần con cái. Bà đem hai cây hồng, trồng trước cửa sổ. Năm nào, hai cây cũng ra hoa trắng, hoa đỏ rất đẹp.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Chim ưng thần[/b] Ngày xưa có một ông vua trị vì vào thời nào, tên là gì, tôi không nhớ rõ nữa. Vua không có con trai, chỉ có độc một cô con gái, luôn luôn đau ốm, không thầy thuốc nào chữa khỏi được. Vua được nghe lời tiên tri là công chúa ăn táo có thể khỏi được. Vua liền cho báo trong khắp nước là kẻ nào dâng công chúa táo ăn và khỏi bệnh thì sẽ được lấy nàng và lên ngôi vua. Một bác nông dân có ba con trai cũng được tin ấy. Bác liền bảo người con đầu: - Con hãy lên buồng kho, lấy một giỏ đầy táo ngon đỏ ối mà mang đến triều đình. Có thể công chúa ăn táo và khỏi bệnh, con được lấy nàng rồi lên ngôi vua. Chàng trai làm như vậy và lên đường ra đi. Chàng đi được vài giờ thì gặp một người nhỏ bé, tóc hoa râm, hỏi chàng mang gì trong giỏ. Chàng Unrich – tên chàng là Unrich - đáp: - Tôi mang chân ếch. Người nhỏ bé liền bảo: - Ừ được, cứ như thế! Rồi Unrich lại đi, đi mãi đến cung điện, báo là chàng mang táo đến, công chúa ăn vào sẽ khỏi bệnh. Vua nghe nói mừng lắm, cho đòi Unrich vào. Nhưng trời ơi! chàng mở giỏ ra thì chẳng thấy táo mà chỉ thấy chân ếch hãy còn ngọ ngoậy. Vua nổi giận đuổi chàng về. Chàng về nhà kể lại cho bố nghe đầu đuôi câu chuyện. Bố liền sai con thứ hai tên là Damuen đi, nhưng sự việc xảy ra cũng đúng như với Unrich. Chàng cũng lại gặp một người nhỏ bé, tóc hoa râm, hỏi chàng mang gì trong giỏ, Damuen đáp: - Tôi mang lông lợn. Người nhỏ bé tóc hoa râm đáp: - Ừ được, cứ như thế! Chàng đến cung điện, bảo là chàng mang táo đến, công chúa ăn vào sẽ khỏi bệnh. Người ta không để chàng vào và bảo là đã có một tên vào đây giễu cợt họ. Damuen kêu nài mãi, quả quyết là mình có thứ táo ấy, phải để cho chàng vào. Sau cùng người ta cũng tin chàng, dẫn chàng vào chầu vua. Nhưng khi chàng mở giỏ ra thì chỉ có lông lợn. Vua tức giận vô cùng, sai đuổi Damuen ra. Chàng về nhà kể lại cho bố nghe đầu đuôi câu chuyện. Người con út ở nhà chỉ gọi là thằng Ngốc Hanxơ liền hỏi bố là mình mang táo đi có được không. Bố bảo: - Ừ, thứ mày mới thật là đúng nhỉ! Đến mấy đứa tinh khôn còn chẳng làm nên trò trống gì thì mày làm gì được? Người con út không chịu nói: - Ấy bố ơi! Con cũng muốn đi! Người bố liền bảo: - Cút đi, mày phải đợi đến lúc nào tinh khôn hơn đã. Rồi bác quay lưng đi. Nhưng người con kéo áo bố nói: - Ấy bố ơi! Con cũng muốn đi! Người bố đáp bằng một giọng cáu kỉnh: - Ừ, thôi được, mày đi đi, chắc là mày lại trở về mà thôi. Cậu út mừng quá, nhảy lên. Bố lại bảo: - Chà, mày như thằng điên, mỗi ngày một ngốc thêm. Hanxơ cũng chẳng động lòng, vẫn mừng mừng rỡ. Lúc ấy trời đã tối, chàng nghĩ bụng đợi đến sáng mai, không đến cung điện ngay hôm nay. Đến đêm chàng nằm trên giường không ngủ được. Tuy không ngủ được ngay, chàng cũng mơ tới cô thiếu nữ xinh đẹp, nhưng tòa lâu đài, vàng bạc và nhiều thứ khác nữa. Sáng hôm sau, chàng lên đường và gặp ngay người bé nhỏ, lẻo khoẻo, mặc quần áo xám trắng, hỏi chàng mang gì trong giỏ. Hanxơ đáp là chàng có táo, công chúa ăn vào sẽ khỏi. Người nhỏ bé liền đáp: - Ừ, cứ như thế! Nhưng ở cung điện người ta nhất định không cho Hanxơ vào vì đã có hai tên đến xưng là mang táo lại thì một đứa mang chân ếch, còn một đứa mang lông lợn. Nhưng Hanxơ van xin mãi, nói là quả thật chàng không mang đến chân ếch, mà mang đến táo ngon nhất nước. Chàng ăn nói đứng đắn, lính cánh cổng cho là chàng không nói dối, bèn để cho chàng vào. Mà họ làm vậy là đúng, vì khi chàng mở giỏ trước mặt vua thì táo vàng hiện ra. Vua mừng rỡ, cho mang đến công chúa ngay và đợi người đến báo tin kết quả ra sao. Chỉ một lát sau, có người mang tin lại. Nhưng kìa, ai kia kìa? Chính là công chúa. Nàng vừa ăn táo thì khỏi bệnh liền, nhảy ở giường xuống. Không ai tả được hết nỗi vui mừng của nhà vua. Nhưng giờ vua lại không muốn gả công chúa cho Hanxơ. Vua bảo chàng trước hết phải đóng một chiếc thuyền, đi trên cạn nhanh hơn cả đi dưới nước. Hanxơ nhận điều kiện ấy, về nhà kể lại sự việc xảy ra. Bố liền bảo Unrich vào rừng đóng một chiếc thuyền như vậy. Chàng làm việc rất cần cù, vừa làm vừa huýt sáo. Đến giữa trưa, trời đứng bóng, có một người bé nhỏ tóc hoa râm đến hỏi chàng làm gì. Unrich đáp: - Tôi làm bay thợ nề. Người bé nhỏ tóc hoa râm bảo: - Ừ được, cứ như thế! Đến tối, Unrich tưởng là mình đã đóng xong chiếc thuyền nào ngờ lúc ngồi vào chỉ toàn bay thợ nề. Hôm sau Damuen vào rừng. Nhưng sự việc xảy ra cũng y như đối với Unrich. Đến ngày thứ ba, chàng Ngốc Hanxơ đi vào rừng. Chàng làm thật chăm chỉ, cả khu rừng vang tiếng đập chan chát, chàng vừa làm vừa hát và huýt sáo vui vẻ. Đến giữa trưa, lúc trời nóng bức nhất, người nhỏ bé lại đến hỏi chàng làm gì. Chàng đáp là chàng đang đóng một chiếc thuyền đi trên cạn nhanh hơn cả đi dưới nước, làm xong sẽ cưới công chúa làm vợ. Người nhỏ bé bảo: - Ừ, cứ như thế! Chiều tối, khi mặt trời lặn, chàng Hanxơ đã làm xong chiếc thuyền, mái chèo và các bộ phận khác. Chàng ngồi vào thuyền chèo đến kinh thành. Chiếc thuyền đi nhanh như gió. Vua thấy chiếc thuyền từ đằng xa, nhưng vẫn không muốn gả con gái cho Hanxơ. Vua lại bảo chàng phải chăn một trăm con thỏ từ sớm tinh mơ đến tối mịt, nếu có một con trốn thì không được lấy công chúa. Chú Hanxơ vui lòng nhận lời và ngay hôm sau, cùng cả đàn thỏ vào bãi hoang. Chàng chăm chú canh không để con nào trốn cả. Một vài giờ trôi qua, một con hầu ở cung điện đến bảo chàng Hanxơ phải đưa ngay một con thỏ vì có khách. Chàng Hanxơ nhận ngay ra mưu kế, chàng từ chối không chịu đưa thỏ, bảo là vua có thể đợi đến mai hãy mời khách món thỏ hồ tiêu. Con hầu không chịu thôi, quay ra khóc lóc. Chàng Hanxơ liền bảo là nếu công chúa thân chinh lại, chàng sẽ đưa cho một con thỏ. Con hầu về cung điện báo, công chúa thân chinh lại. Trong khi ấy người bé nhỏ lại đến gặp Hanxơ, hỏi chàng đang làm gì. Chàng đáp là chàng đang phải chăn một trăm con thỏ, không để con nào trốn mất, làm được sẽ lấy công chúa và làm vua. Người bé nhỏ bảo: - Được! Đây có cái còi, có con nào chạy trốn, cứ thổi còi thì nó lộn lại. Khi công chúa đến, Hanxơ đặt một con thỏ vào tạp dề của nàng. Vua ngạc nhiên khi thấy Hanxơ đã chăn nổi một trăm con thỏ, không con nào trốn khỏi. Nhưng vua nhất định không chịu gả con gái cho Hanxơ, bắt chàng phải mang đến dâng vua một cái lông đuôi chim ưng thần đao. Chú Hanxơ lên đường rảo bước. Đến tối, chàng đến một tòa lâu đài. Chàng xin ngủ lại, vì thời ấy chưa có quán trọ. Ông chủ lâu đài vui vẻ nhận lời và hỏi chàng đi đâu. Chàng Hanxơ đáp: - Tôi đến chỗ chim ưng thần. - À, đến chỗ chim ưng thần à! Người ta kể lại là chim ấy biết tất cả mọi việc. Tôi mất chiếc chìa khóa hộp tiền bằng sắt. Chàng làm ơn hỏi hộ cho tôi chìa khóa ở đâu nhé! Chàng Hanxơ đáp: - Được, chắc chắn tôi sẽ làm. Sáng hôm sau, chàng lại lên đường đi tới một tòa lâu đài khác, chàng ngủ lại ở đấy. Khi người ở lâu đài biết là chàng định đi đến chỗ chim ưng thần, họ nói là có cô con gái bị bệnh, chữa đủ mọi cách mà không khỏi, họ nhờ chàng làm ơn hỏi hộ chim ưng xem phải làm gì để chữa cô khỏi. Chú Hanxơ nhận làm việc ấy rồi lại lên đường đi. Chàng đi tới một con sông, không có đò ngang chỉ có một người to lớn chuyển mọi người qua. Người ấy hỏi Hanxơ đi đâu, chàng đáp: - Đến chỗ chim ưng thần. Hắn dặn: - Nếu chàng có gặp chim, nhờ hỏi hộ tôi tại sao tôi cứ phải chuyển tất cả mọi người qua sông. Chàng Hanxơ đáp: - Chà được thôi. Tôi nhất định phải làm. Hắn đặt chàng lên vai đưa chàng qua. Chàng Hanxơ đi mãi đến nhà chim ưng thần, nhưng nó đi vắng, chỉ có vợ ở nhà. Vợ chim hỏi chàng muốn gì. Chàng kể lại hết đầu đuôi: Chàng muốn có một chiếc lông đuôi chim ưng thần; ở lâu đài nọ, người ta đánh mất chiếc chìa khóa hộp tiền mới, chàng định hỏi chim ưng thần chìa khóa ở đâu, ở lâu đài khác, có cô gái bị bệnh, chàng muốn biết cái gì chữa cô khỏi được; gần đó, có con sông và một người phải đưa người qua, chàng cũng muốn biết tại sao hắn phải đưa mọi người sang. Vợ chim ưng thần bảo: - Này, anh bạn ơi, không ai nói chuyện với chim ưng thần được đâu. Nó ăn thịt tất cả mọi người. Nhưng nếu anh muốn thì anh cứ chui vào nằm dưới giường nó. Đến đêm khi nó ngủ say, anh có thể vươn tay ra mà giật lấy chiếc lông đuôi. Còn những điều anh muốn biết thì để tôi sẽ hỏi cho. Chàng Hanxơ đồng ý, chui vào nằm dưới giường. Đến tối, chim ưng thần về. Nó vào đến buồng thì bảo vợ ngay: - Mình này, ta ngửi thấy mùi thịt người. Vợ đáp: - Đúng đấy. Hôm nay có một người đến, nhưng nó đi rồi. Rồi vợ chim ưng thần không nói gì nữa. Giữa đêm, chim ưng thần đang ngáy o o thì chàng Hanxơ đưa tay ra giật một chiếc lông đuôi. Chim ưng thần giật mình bảo: - Mình này, ta ngửi thấy mùi thịt người. Mà hình như có kẻ giật lông đuôi ta. Vợ chim ưng liền bảo: - Đúng là mình mê ngủ rồi. Tôi đã bảo mình là hôm nay có một người đến, nhưng nó đi rồi. Thôi thì hắn kể đủ thứ. Nào là một tòa lâu đài nọ, người ta đánh mất hộp tiền mới, không tìm thấy nữa. Chim ưng thần nói: - Thật là đồ ngu. Chìa khóa ở trong cái nhà kho để củi, dưới một đống củi sau cửa ấy. - Hắn lại còn bảo là ở lâu đài khác, có đứa con gái bị bệnh, không biết cách nào chữa được. Chim ưng thần nói: - Thật là ngu. Dưới cầu thang trong hầm có một con cóc lấy tóc của cô ấy làm tổ. Nếu cô ấy lấy lại được tóc thì khỏi bệnh. - Rồi hắn lại bảo là ở một nơi có con sông, và một người phải mang tất cả mọi người qua. Chim ưng thần nói: - Chà, thằng ngu! Hắn chỉ việc đặt một người xuống giữa dòng thì tự khắc không phải mang ai qua nữa. Sáng sớm, chim ưng thần lại ra đi. Chàng Hanxơ chui ở gầm giường ra, cầm một chiếc lông đẹp. Chàng lại nghe thấy hết cả mọi điều chim nói về chiếc chìa khóa, cô con gái và người đàn ông. Vợ chim ưng thần kể lại tất cả cho chàng nghe lần nữa để chàng khỏi quên. Sau đó, chàng lên đường về nhà. Trước tiên, chàng đến chỗ người ở bên sông. Hắn hỏi ngay chàng chim bảo gì. Chàng bảo hắn mang chàng qua đã rồi sẽ nói. Hắn mang chàng qua sông. Chàng liền bảo hắn chỉ việc đặt một người xuống giữa dòng, thì tự khắc không còn phải mang ai qua nữa. Hắn mừng rỡ lắm, bảo Hanxơ muốn mang chàng qua sông rồi lại mang về để tỏ lòng biết ơn. Chàng từ chối, bảo là không muốn phiền hắn, chàng đã hài lòng rồi. Rồi chàng lại đi. Chàng đi đến lâu đài có cô con gái ốm. Chàng cõng cô trên vai, vì cô không đi được, và mang cô xuống cầu thang dưới hầm. Chàng lấy cái tổ cóc ở dưới bậc cuối đặt vào tay cô; cô nhảy từ trên vai chàng xuống, chạy lên thang trước chàng và khỏi hẳn. Bố mẹ cô mừng lắm, cho chàng Hanxơ vàng bạc, chàng muốn gì cho nấy. Đến lâu đài sau, chàng đi ngay vào nhà kho để củi, tìm thấy dưới đống củi sau cửa đúng ngay chiếc chìa khóa vàng và mang lên cho chúa lâu đài. Ông ta mừng rỡ vô cùng, thưởng cho Hanxơ nhiều vàng trong hộp, lại cho thêm đủ thứ, như bò sữa, cừu, dê. Chàng Hanxơ đến chỗ nhà vua với tất cả những thứ ấy nào là tiền, là vàng, là bạc, nào là bò, là cừu, là dê. Vua hỏi chàng lấy ở đâu ra tất cả của cải ấy. Chàng cho biết là chim ưng thần bảo ai muốn lấy bao nhiêu cũng cho. Vua nghĩ bụng, mình cũng cần đến, bèn lên đường đi đến chỗ chim ưng thần. Nhưng khi vừa đến bến sông, thì vua đúng là người đầu tiên đến từ khi Hanxơ đi qua. Người ấy đặt vua xuống giữa dòng rồi đi mất. Vua bị chết đuối. Chàng Hanxơ cưới công chúa và lên ngôi vua.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Nước trường sinh[/b] Xưa có một ông vua ốm thập tử nhất sinh, ai cũng cho là không thể sống được nữa. Ba con trai thấy vậy, buồn lắm. Một hôm, ba người đang đứng trong vườn khóc, thì thấy một ông cụ hiện đến hỏi vì sao mà buồn. Ba người thưa với cụ rằng vua cha ốm nặng thuốc nào cũng không chữa khỏi, thế nào cũng chết. Cụ nói: - Lão biết một thứ nước trường sinh. Nếu nhà vua được nước ấy mà uống thì sẽ khỏi. Nhưng thứ nước ấy khó tìm lắm. Người con cả nói: - Nhất định tôi đi tìm cho bằng được. Hoàng tử bèn đến xin phép vua đi tìm nước trường sinh, vì chỉ có nước ấy mới chữa được vua khỏi. Vua phán: - Ta thà chết còn hơn để con phải nguy hiểm! Nhưng Hoàng tử nằn nì mãi, vua cha cũng phải chấp thuận. Chàng nghĩ bụng: "Nếu ta lấy được nước này về, cha ta sẽ yêu ta nhất và sẽ nhường ngôi cho ta". Thế là chàng lên đường. Chàng ruổi ngựa đi mãi và gặp một người lùn. Người đó hỏi chàng đi đâu mà vội thế. Chàng xẵng giọng đáp: - Đồ lùn ngu xuẩn không việc gì đến mày! Rồi chàng lại đi. Ngươi lùn tức giận, phù phép hại chàng. Chàng đi vào khe núi rất hẹp, càng tiến sâu núi càng xiết chặt, không đi được nữa. Quay ngựa cũng không được, xuống yên cũng không xong, chàng đành ngồi nguyên chỗ. Ở nhà, vua cha mong đợi mãi mà không thấy con trở về. Hoàng tử thứ hai lại tâu vua: - Thưa cha, cha để con đi tìm nước trường sinh. Chàng nghĩ bụng anh chết rồi thì bây giờ ngôi báu sẽ về mình. Trước vua không cho, nhưng sau cũng đành phải chiều ý con. Chàng cũng đi theo con đường của anh và cũng gặp người lùn. Người ấy cũng giữ chàng lại và hỏi chàng đi đâu mà vội vã thế? Chàng đáp: - Đồ lùn oát con, không việc gì đến mày! Rồi chàng đi thẳng, không ngoảnh cổ lại. Người lùn cũng lại phù phép hại chàng. Cũng như anh, chàng lại đi vào khe núi, không tiến thoái được nữa. Đó là hình phạt đối với kẻ kiêu ngạo. Thấy hai anh không về, Hoàng tử thứ ba cũng lại xin phép vua cha đi tìm nước trường sinh. Cuối cùng, vua cha đành để cho đi. Chàng cũng gặp người lùn và khi người ấy hỏi chàng đi đâu mà vội vã thế, thì chàng dừng ngựa lại, ôn tồn đáp: - Cha tôi hấp hối, tôi đi tìm nước trường sinh. Người lùn hỏi: - Chàng có biết ở đâu không? - Thưa không ạ. - Vì chàng cư xử lễ độ, không kiêu căng như hai anh chàng nên ta mách chàng tìm nước trường sinh. Trong sân một tòa lâu đài bị phù phép, có một cái giếng phun nước trường sinh. Ta sẽ cho chàng một que sắt và hai cái bánh để giúp chàng vào. Chàng lấy que sắt đập ba cái vào cửa sắt thì cửa sẽ mở tung ra. Ở trong có hai con sư tử há mồm đứng rình. Chàng vứt cho mỗi con một cái bánh thì nó yên. Rồi mau mau đi lấy nước trường sinh trước khi chuông đánh mười hai tiếng, vì nếu không thì cửa sập lại, chàng sẽ bị giam ở trong. Hoàng tử cám ơn người lùn, lĩnh que và bánh rồi lên đường. Chàng đến nơi và thấy mọi việc xảy ra đúng như lời người lùn đã bảo. Chàng lấy que sắt đập ba cái thì cửa mở tung và sau khi ném bánh cho sư tử ăn, chàng vào lâu đài. Chàng vào một phòng lớn trang hoàng rực rỡ, có những vị hoàng tử bị phù phép đang ngồi. Chàng tháo nhẫn đeo ở ngón tay các vị ấy và lấy một chiếc bánh và một thanh kiếm ở đó. Trong một phòng khác, chàng gặp một nàng công chúa đẹp tuyệt vời. Khi trông thấy chàng, nàng mừng rỡ hôn chàng và bảo chàng biết rằng chàng đã giải thoát cho nàng khỏi phù phép. Nàng hẹn chàng một năm nữa sẽ đến gặp nàng, bấy giờ sẽ làm lễ cưới, và nàng sẽ dâng ngôi cho chàng. Nàng trỏ cho chàng chỗ có nước trường sinh và khuyên chàng lấy cho mau trước khi nghe thấy chuông đánh mười hai tiếng. Chàng đi nữa thì đến một phòng có một chiếc giường rất đẹp, mới trải khăn. Chàng đã mệt nhoài, nên muốn nghỉ một lúc. Chàng nằm xuống rồi ngủ mất. Chàng tỉnh dậy thì đồng hồ đánh mười một giờ ba khắc. Chàng vùng dậy, chạy đến giếng. Ở đó có một cái bình, chàng lấy cốc múc nước rồi vội vã ra về. Khi chàng đến cửa thì nghe thấy mười hai tiếng chuông, rồi cửa sập mạnh đến nỗi chàng mất một miếng gót chân. Nhưng chàng đã lấy được nước thần rồi nên mừng lắm lên đường về. Chàng lại qua chỗ người lùn. Thấy chàng mang thanh kiếm và chiếc bánh, người ấy nói: “Chàng đã lấy được những bảo bối rất quí: kiếm có thể phá tan nhiều đạo quân, còn bánh thì ăn không bao giờ hết”. Nhưng Hoàng tử muốn các anh cùng về để trông thấy mặt cha, bèn nói: - Bác lùn thân mến ơi, bác có biết bây giờ hai anh tôi ở đâu không? Hai anh tôi đi tìm nước trường sinh trước tôi mà chưa thấy về. Người lùn nói: - Ấy chỉ vì họ kiêu ngạo nên ta phù phép khiến họ bị kẹp giữa hai quả núi đấy. Hoàng tử van lạy mãi, người ấy mới chịu tha cho hai anh, nhưng người ấy dặn chàng: - Chàng phải đề phòng cẩn thận, họ xấu bụng lắm đấy. Chàng gặp hai anh, vui mừng khôn xiết, kể cho hai anh biết chuyện mình tìm thấy nước trường sinh, lấy được một cốc đầy, giải thoát cho một nàng công chúa xinh đẹp; nàng sẽ đợi chàng một năm để cưới và dâng chàng ngôi báu. Ba anh em cùng đi, đường về qua một nước đang bị cảnh chiến tranh đói kém. Vua nước đó cho là nhân dân cùng khổ thế thì phen này đến mất hết cơ đồ sự nghiệp. Hoàng tử đến yết kiến ông vua ấy, cho mượn chiếc bánh để toàn dân ăn no, thanh kiếm để dẹp tan quân giăc, nhân dân yên hưởng thái bình. Sau đó Hoàng tử lấy lại chiếc bánh và thanh kiếm, rồi ba anh em lại lên đường. Ba anh em đi qua hai nước nữa cũng bị cảnh chiến tranh và nạn đói. Hoàng tử cho vua các nước ấy mượn chiếc bánh và thanh kiếm, thế là cứu được ba nước. Sau đó, ba anh em lên thuyền vượt biển về nước. Trong khi đi, hai ngươi anh bàn nhau: "Thằng út nó lấy được nước trường sinh về chứ không phải bọn ta. Cha sẽ cho nó nối ngôi, còn chúng mình thì mất phần". Hai tên sinh lòng đố kỵ bàn mưu hãm hại em. Chúng chờ cho em ngủ thật say, rót nước trường sinh ở bình của em ra, đổ nước bể thay vào. Tới nhà, Hoàng tử út vội lấy bình nước dâng cha uống cho khỏi bệnh. Vua vừa uống vài ngụm nước bể mặn chát thì bệnh lại tăng lên. Vua đang rền rĩ, thì hai con lớn đến tố cáo vu cho em mưu đầu độc cha. Chúng nói là chúng đã lấy được nước trường sinh thật mang về đưa cha. Cha vừa uống nước đó thì thấy khỏi bệnh ngay và lại khỏe như thời còn trẻ. Hai anh chế nhạo em: - Chính mày đi lấy nước trường sinh về. Mày có công, còn chúng tao được hưởng. Lẽ ra mày phải khôn ngoan tỉnh táo hơn: khi qua bể, mày ngủ say, chúng tao lấy trộm của mày đấy. Sang năm, một trong chúng tao sẽ đến tìm công chúa đẹp kia. Nhưng mày khôn hồn thì đừng có nói lộ ra; cha chẳng tin mày đâu. Nếu mày hở ra một câu thì mày sẽ toi mạng. Muốn sống thì phải câm mồm. Vua ngỡ là chính con út hại mình, nên tức giận, họp triều định quyết định xử bắn con một cách bí mật. Một thị vệ được phái đi săn cùng hoàng tử. Hoàng tử không nghi ngờ gì cả. Khi chỉ còn hai người trong rừng, Hoàng tử thấy y có vẻ buồn rầu, bèn hỏi: - Sao ngươi có vẻ buồn thế? - Kẻ bầy tôi không thể nói được. - Ngươi cứ việc nói, ta lượng thứ cho. - Trời ơi, hoàng thượng truyền cho kẻ hạ thần bắn Hoàng tử đấy. Hoàng tử sợ hãi nói: - Ngươi hãy để ta sống. Ngươi hãy mặc áo bào của ta để ta mặc áo của ngươi. - Vâng, vâng, kẻ hạ thần không nỡ bắn hoàng tử. Hai người đổi áo cho nhau. Người thị vệ về nhà, còn Hoàng tử trốn vào rừng. Một thời gian sau, có ba xe tải nặng vàng ngọc đến cung vua tạ ơn hoàng tử thứ ba đã giúp ba ông vua thanh kiếm để dẹp giặc và chiếc bánh để cứu nhân dân khỏi chết đói. Vua cha nghĩ: "Có lẽ con ta không có tội tình gì", rồi bảo quần thần: - Ước gì con ta còn sống! Ta tiếc rằng đã sai giết nó. Người thị vệ thưa: - Tâu hoàng thượng, Hoàng tử còn sống. Kẻ hạ thần đã không đang tâm giết hoàng tử. Rồi y kể đầu đuôi câu chuyện cho vua nghe. Lòng vua nhẹ hẳn đi. Ngài cho loan báo khắp các nước cho phép con về và hứa sẽ tha tội cho. Trong khi đó công chúa đã sai làm trước cung điện của nàng một con đường lát vàng sáng nhoáng. Nàng dặn quần thần rằng ai cưỡi ngựa đi thẳng vào con đường ở giữa thì đúng là chồng thật, cứ để người ấy vào. Còn người nào đi bên cạnh mà vào thì không phải là người chồng thật, đừng cho vào. Thời gian một năm sắp qua, Hoàng tử anh cả vội vã lên đường để đến nhận là mình đã cứu công chúa, hòng lấy công chúa và lên ngôi vua. Y ruổi ngựa đi. Tới trước cung điện, y thấy con đường lát vàng đẹp đẽ, nghĩ thầm: "Giẫm lên đó thì tiếc quá". Y bèn tránh cho ngựa đi sang mé bên phải. Nhưng khi y đến cổng thì quân hầu bảo y không phải là người chồng mà công chúa chờ đợi, và không cho vào. Liền ngay đó, Hoàng tử thứ hai đến. Ngựa vừa đặt chân lên con đường vàng thì y nghĩ là không nên làm hỏng con đường đẹp thế. Y cho ngựa đi sang bên trái. Khi y đến cổng, quân hầu bảo y không phải là người chồng mà công chúa chờ đợi, xin mời quay về ngay. Thời gian một năm qua, Hoàng tử thứ ba ra khỏi rừng để đi tìm người yêu, mong tìm nguồn an ủi bên nàng. Chàng ra đi chỉ nghĩ đến nàng, tới gần cung điện mà cũng không để ý đến con đường lát vàng. Vì vậy chàng cho ngựa đi ngay giữa đường, tới cổng thì cửa mở toang. Công chúa mừng rỡ đón chàng, nhận chàng là ân nhân và là chủ đất nước. Lễ cưới linh đình. Sau đó, nàng báo cho chàng biết là vua cha đang gọi chàng về tha tội cho chàng. Chàng về cung, dự định sẽ tâu để vua biết là hai anh đã lừa chàng thế nào. Tuy vậy, chàng vẫn giữ kín chuyện. Vua cha muốn làm tội hai người anh, nhưng họ đã xuống tàu vượt bể, không bao giờ về nữa.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Vua núi vàng[/b] Một người lái buôn có hai con, một gái một trai đều nhỏ, chưa biết đi. Bác trang bị hai chiếc tàu, đầy đủ hàng hóa quý giá, tất cả gia tài, của cải đều ở đó. Bác tưởng lãi to. Không ngờ được tin cả hai tàu bị đắm. Bác đang giàu hóa nghèo, chỉ còn một mảnh đất ở xa thị trấn. Muốn cho khuây khỏa bác ra đó, đi đi lại lại, bỗng bác thấy bên mình có một người đen nhỏ bé hỏi bác tại sao lại buồn. Bác đáp là bác sẵn lòng cho biết nếu y giúp được bác. Y nói: - Biết đâu tôi lại chẳng giúp được bác điều gì có lợi. Bác lái buôn liền kể lại của cải của mình đều bị chìm dưới biển. Chỉ còn lại mảnh đất ấy. Người kia đáp: - Bác đừng lo. Bác muốn bao nhiêu tiền cũng có, miễn là bác hứa với tôi khi về nhà, cái gì chạm vào chân bác trước tiên thì sau mười hai năm nữa bác phải mang lại đây cho tôi. Bác lái buôn nghĩ bụng: "Chắc chỉ có con chó của mình", vì bác không hề nghĩ đến đứa con trai nhỏ. Bác nhận lời, thề với người đen sẽ giữ lời hứa. Rồi bác về nhà. Đứa con trai thấy bố về mừng quá, lần ghế đi đón bố và nắm lấy chân bố. Bác nghĩ đến lời thề lòng đau như cắt, nhưng bác chẳng thấy tiền đâu, bác yên dạ là người đen đùa bác thôi. Một tháng sau bác lên buồng gác xép lấy ít bát đĩa bằng thiếc đem bán thì thấy bát đĩa biến thành vàng cả rồi. Bác vui lắm. Bác bán đi lấy tiền mua hàng, bác giàu hơn trước nhiều. Lần lần con bác lớn, trí óc mở mang, nhưng thấy con gần tới tuổi mười hai thì bác lái buôn càng đâm lo, lo hiện ra mặt. Một hôm con hỏi bố tại sao lại có vẻ lo, bố không muốn nói. Con năn nỉ mãi, bố phải thú thật là xưa kia bác đã dại dột thề là năm nó mười hai tuổi sẽ giao nó cho một người đen, đền bù lại số vàng bạc người đó đã cho bác. Đứa con đáp: - Bố không phải lo. Việc rồi đâu sẽ vào đó, người đen sẽ không có quyền lực gì đối với con đâu. Nó đến xin một vị linh mục ban phép thánh cho. Đến ngày hẹn, nó đi với bố ra mảnh đất ngoài thị trấn. Tới nơi, nó vẽ một vòng tròn cùng bố đứng vào giữa. Người đen hiện ra bảo bố: - Bác có mang đến cái bác đã hứa với tôi không. Bác lái buồn im lặng nhưng đứa con trai hỏi: - Bác đến đây tìm gì? Người đen đáp: - Tao nói với bố mày chứ không nói với mày. Đứa bé đáp: - Bác đánh lừa bố tôi. Bác hãy xóa bỏ lời thề trong óc bố tôi đi. Người đen đáp: - Không, tao không bỏ quyền lợi của tao. Họ thảo luận với nhau rất lâu rồi đồng ý với nhau như sau: Đứa con trai sẽ không thuộc vào bố cũng không thuộc vào người kia. Nó sẽ phải ngồi vào một chiếc thuyền ở ven sông, bố sẽ lấy chân đẩy ra giữa dòng để con trôi theo ngọn nước. Đứa con từ biệt bố, ngồi vào thuyền và chính bố đẩy thuyền đi. Thuyền lộn nhào. Người bố tưởng con đã chết liền để tang con. Nhưng chiếc thuyền không đắm, lơ lửng trôi đến một bến xa lạ rồi đứng lại. Anh thanh niên lên bờ, thấy đằng xa có một tòa lâu đài, liền đi về hướng ấy, anh vào thì thấy lâu đài bị phù phép, anh qua các phòng, phòng nào cũng trống rỗng. Ở phòng cuối cùng, anh nhìn thấy một con rắn nước. Đó là một cô gái bị phù phép. Cô thấy anh mừng rỡ bảo: - Anh đến giải thoát em đấy à? Em đợi anh mười hai năm nay rồi. Cả nước này bị phù phép, anh phải giải thoát đi. Anh hỏi: - Tôi phải làm gì? Cô đáp: - Đêm nay có mười hai người đen mang nặng xiềng xích hỏi anh làm gì ở đây. Anh đừng đáp, kệ cho chúng muốn làm gì anh thì làm. Chúng sẽ hành hạ anh, đánh đập anh, đâm anh. Đến nửa đêm, chúng sẽ phải bỏ đi. Đêm thứ hai, mười hai người khác sẽ đến, đêm thứ ba sẽ có hai mươi bốn người đến chặt đầu anh. Nhưng cứ đến nửa đêm là chúng sẽ mất hết phép thuật. Nếu anh cứ để chúng hành hạ mà không nói nửa lời thì em sẽ được giải thoát. Em sẽ lấy một chai nước hồi sinh bóp cho anh tỉnh lại, anh sẽ sống và lành lặn như trước. Anh thanh niên đáp: - Tôi sẵn lòng giải thoát cho cô. Việc xảy ra đúng như lời cô nói. Bọn người đen không cậy được anh nửa lời. Đến đêm thứ ba, con rắn nước hóa ra nàng công chúa xinh đẹp, lấy nước hồi sinh bóp cho anh tỉnh lại. Cô ôm cổ anh hôn, ở lâu đài mở hội linh đình. Lễ cưới được tổ chức, anh trở thành Vua Núi Vàng. Hai vợ chồng cùng nhau sống sung sướng. Hoàng hậu sinh con trai. Tám năm sau, vua nhớ bố tha thiết, muốn gặp lại bố. Hoàng hậu không muốn để vua đi, ngăn lại: - Em sẽ phải đau khổ, nếu chàng đi. Nhưng rồi bà cũng phải bằng lòng. Khi vua lên đường, bà trao cho vua một chiếc nhẫn thần và bảo: - Chàng đeo nhẫn này vào ngón tay, muốn đi đâu tự khắc đến ngay. Nhưng chàng phải hứa cùng em là đừng dùng nhẫn bắt em đến chỗ bố chàng. Vua hứa rồi đeo nhẫn vào ngón tay, ước gì mình đến được thị trấn bố ở. Vua tới nơi liền, nhưng lính canh thấy vua ăn mặc quần áo tuy lịch sự nhưng kỳ lạ thì không để vua vào thành. Vua liền đến một ngọn đồi đổi quần áo cho một gã chăn chiên, vào thành không bị lôi thôi gì. Khi vua đến trước mặt bố, xưng tên tuổi. Người bố nói rằng mình quả là có một cậu con trai, nhưng nó đã chết từ lâu. Ông thương hại gã chăn chiên tội nghiệp bố thí cho một bữa ăn. Người chăn chiên liền bảo bố mẹ: - Chính con là con trai bố mẹ đây mà. Con trai bố mẹ có dấu vết gì trên người khả dĩ nhận được ra không? Người mẹ nói: - Có, con trai chúng tôi có một dấu giống như quả dâu ở dưới vai bên phải. Vua vén tay áo lên thì quả có thấy dấu một quả dâu. Hai ông bà chắc chắn là con trai mình thật. Người thanh niên kể lại mình là Vua Núi Vàng, mình đã lấy một nàng công chúa, hai vợ chồng đã có một đứa con trai lên bảy tuổi rất xinh đẹp. Bố nói: - Ta không tin một tí nào. Kẻ đứng trước mặt ta ăn mặc quần áo chăn chiên tồi tàn không thể nào là vua được. Người con trai nghe nói tức lắm, quay chiếc nhẫn ước sao vợ con đến ngay bên mình. Họ đến ngay. Nhưng hoàng hậu khóc lóc, than vãn, trách chồng không giữ lời hứa khiến bà đau khổ. Chàng xin nàng tha lỗi cho mình, nói là mình vô ý hành động, chứ không có định phỉ báng nàng. Nàng làm ra bộ tha lỗi cho chàng, nhưng nhất quyết trả thù. Một hôm, chàng dắt nàng ra ngoài thị trấn và chỉ cho nàng chỗ con sông mà trước kia chàng đã xuống thuyền trôi theo dòng nước. Hai người cảm thấy mệt nhọc, ngồi xuống. Chàng gối đầu vào lòng nàng, chẳng bao lâu ngủ thiếp đi, nàng tháo nhẫn ở ngón tay chàng ra, để lại chiếc hài ở dưới chân chàng rồi ước được về cung với con. Chàng tỉnh dậy, thấy mình bị bỏ rơi. Ở dưới đất có chiếc hài còn chiếc nhẫn đã biến mất. Chàng định trở về với bố mẹ, lại sợ bố mẹ cho mình là tên trí trá. Chàng tìm cách trở về nơi mình trị vì. Chàng lên đường gặp ba tên khổng lồ đang cãi nhau vì chia gia tài của bố để lại. Chúng thấy chàng, gọi lại nhờ chàng phân xử. Chúng nói là con người nhỏ bé tinh khôn hơn chúng. Gia tài gồm một thanh gươm, một chiếc áo khoác và một đôi giày ủng. Khi người có gươm hô: "Tất cả đầu rụng xuống đất, trừ đầu ta" thì lời ước thành sự thật trong nháy mắt. Ai mặc chiếc áo khoác thì thành vô hình. Ai đi đôi giày ủng thì muốn đi đâu là đến được đấy. Chàng bảo: - Hãy đưa cho ta các vật để ta xem, chúng nó còn có đức tính ấy thật không? Chúng đưa cho chàng chiếc áo khoác. Chàng vừa mặc vào thì đã trở thành vô hình, và biến ra con ruồi. Sau đó chàng lại hiện nguyên hình người và bảo: - Cái áo khoác tốt đấy, giờ đưa cho ta thanh gươm. Nhưng bọn chúng từ chối, sợ chàng dùng gươm làm cho chúng rụng đầu. Sau chúng đưa cho chàng miễn là chàng thử gươm vào cây thôi. Chàng nhận lời, chặt một cây sồi to trong khoảnh khắc. Chàng lại hỏi đôi giầy ủng. Nhưng chúng từ chối và bảo nếu chàng muốn lên đồi thì được lên đồi ngay và như vậy chúng bị thiệt. Chàng hứa là sẽ không làm gì, chúng đưa giầy cho chàng. Khi nắm được ba bảo bối, chàng chỉ nghĩ đến vợ con, liền lẩm bẩm: - Ước gì ta ở Núi Vàng. Chàng liền biến khỏi mắt bọn khổng lồ, và như vậy, gia tài của chúng đã bị chia mất. Chàng tới gần lâu đài của mình, thì nghe thấy tiếng nói đùa vui vẻ, tiếng đàn vĩ cầm và tiếng trống vang rộn. Người ta cho chàng biết là vợ chàng làm lễ cưới lấy một người khác. Chàng nổi giận nói: - Con khốn khiếp! Nó lừa ta, bỏ ta trong khi ta ngủ. Chàng liền mặc áo tàng hình rồi vào lâu đài. Chàng vào phòng lớn thì thấy một bàn tiệc lớn hết sức thịnh soạn, khách khứa ăn uống vui vẻ. Vợ chàng ở giữa, ngồi trên ngai vàng, đầu đội mũ miện. Chàng đứng sau nàng mà nàng không thấy. Hễ có thức ăn bỏ vào đĩa nàng là chàng lấy ăn liền. Nàng được tiếp thức ăn, đồ uống luôn luôn mà vẫn không có gì, mọi thứ đều biến mất trong nháy mắt. Nàng vừa khiếp sợ vừa ngượng ngùng, đứng dậy về buồng khóc nức nở. Chàng vẫn theo nàng. Nàng hỏi: - Quỷ nó theo gót ta, hay là người giải thoát cho ta ngày trước đã đến chăng? Chàng tát nàng bảo: - Người giải thoát người đến chăng? Người ấy ở ngay bên cạnh ngươi đây, đồ phản bội! Nỡ nào ngươi lại đối xử với ta như thế? Sau đó chàng đến phòng lớn bảo: - Hội hè đã kết thúc, chính vua đã về đây. Các vua chúa, hoàng thân, cận thần giễu cợt chàng. Chàng hỏi họ một câu ngắn gọn: - Bay có ra hay không? Họ đổ xô đến bắt chàng. Chàng rút gươm hô: - Tất cả các đầu rụng xuống đất từ đầu ta. Tức khắc các đầu đều rụng xuống. Chàng trở lại làm chúa tể và lại lên ngôi Vua Núi Vàng.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Thần chết đỡ đầu[/b] Xưa có một người nghèo có mười hai đứa con. Bác phải làm ngày làm đêm để nuôi chúng. Khi đứa con thứ mười ba ra đời bác không biết xoay cách nào nữa, đành chạy ra đường cái nhờ người nào gặp trước tiên đỡ đầu cho nó. Thoạt tiên, bác gặp ngay Đức Chúa Trời. Người đã biết ý định của bác, liền phán: - Tội nghiệp, ta thương con lắm, ta rất muốn đỡ đầu cho cháu, chăm sóc nó, làm cho nó sung sướng ở trên thế gian. Người ấy hỏi: - Ông là ai? - Ta là Chúa Trời. - Thế thì tôi không muốn ông đỡ đầu cho con tôi vì ông chỉ phò người giàu sang và bỏ mặc kẻ nghèo khó đói rét. Bác ta bèn quay đi tìm người khác. Bác gặp Quỉ. Quỉ hỏi: - Bác tìm gì? Bác có muốn ta đỡ đầu cho con bác không? Ta sẽ cho nó giàu nứt đố đổ vách và hưởng đủ khoái lạc trên đời. Người kia hỏi: - Ông là ai? - Ta là Quỉ. - Thế thì tôi không muốn ông đỡ đầu cho con tôi, vì ông lừa dối và quyến rũ con người. Rồi bác lại đi. Bác gặp Thần Chết. Toàn thân Thần Chết là mớ xương khô. Thần tiến đến bảo bác: - Bác để ta đỡ đầu cho con bác. Bác hỏi: - Ông là ai? - Ta là Thần Chết, coi ai cũng như ai. - Bác công bằng, coi người giàu kẻ nghèo như nhau. Vậy xin bác đỡ đầu cho con tôi. - Thế nào ta cũng làm cho con bác giàu sang như ta đã giúp cho tất cả các bạn bè của ta. - Thế đến chủ nhật sau sẽ làm phép rửa tội cho cháu, ông nhớ đến nhé. Thần Chết đến đúng hẹn và làm nhiệm vụ của người cha đỡ đầu. Khi thằng bé đã lớn, cha đỡ đầu đến gọi đi. Thần dắt nó vào rừng, chỉ cho nó một cây thuốc và dặn: - Bây giờ ta mới cho con quà đỡ đầu. Ta sẽ làm cho con thành một thầy thuốc lừng danh. Mỗi lần con đi thăm bệnh, ta sẽ hiện đến. Khi con thấy ta đứng phía đầu bệnh nhân, con có thể nói cương quyết rằng họ khỏi bệnh và con cầm lấy cây mà điều trị. Nhưng nếu ta đứng về phía chân họ, thì ta sẽ bắt họ đi: con cứ việc nói cho họ biết rằng dù có chạy chữa cũng vô ích, thầy thuốc nào ở trần gian cũng không thể cứu được. Nhưng con phải cẩn thận chớ dùng cây này ngược với ý ta, nếu không nghe ta thì lụy đến thân đó! Chẳng bao lâu, chàng thanh niên thành một thầy thuốc, danh lừng bốn biển. Tiếng đồn là thoáng trông bệnh nhân thầy đã có thể nói chắc chắn là chữa được hay chết. Thiên hạ ở đâu đâu cũng kéo đến. Đâu cũng mời thầy và trả thầy rất hậu, chẳng bao lâu thầy giàu có lắm. Lúc bấy giờ, nhà vua lâm bệnh, cho mời thầy đến xem có cứu chữa được nữa không. Khi vào cung, thầy thấy Thần Chết đứng ở phía chân vua. Như vậy là không thuốc nào trị được nữa. Thầy nghĩ bụng: "Giá phỏng mình đánh lừa Thần Chết một bận này, thì nhất định Ngài giận lắm, nhưng chắc là cha đỡ đầu cũng lờ đi cho mình. Vậy mình thử xem thế nào". Rồi thầy cho đặt nhà vua quay đầu về phía Thần Chết và cho uống cây thuốc, vua khỏi bệnh. Thần Chết hầm hầm đến chĩa ngón tay vào mặt thầy lang mà mắng: - Mày đã lừa ta, lần này thì ta tha cho mày vì mày là con đỡ đầu của ta. Nhưng nếu mày còn dại dột lần nữa thì ta sẽ trị thẳng tay. Cách đấy ít lâu, công chúa ốm nặng. Vua chỉ sinh được một mình công chúa, nên khóc đêm khóc ngày đến mù cả mắt. Vua ra chiếu chỉ rằng ai chữa được bệnh công chúa sẽ được làm phò mã và nối ngôi người. Khi thầy lang vào phòng công chúa thì thấy Thần Chết đứng ở phía chân bệnh nhân. Lẽ ra thầy phải nhớ đến lời người cha đỡ đầu dặn. Nhưng thầy thấy công chúa đẹp, thầy hy vọng lấy được công chúa, thầy đâm lú lẫn quên hết, không để ý gì đến Thần Chết đứng quắc mắt và giơ cả nắm đấm xương xẩu lên. Thầy nâng công chúa cho xoay đầu về phía chân giường, rồi cho uống cây thuốc. Đôi má công chúa ửng hồng và nàng khỏi bệnh. Thần Chết bị lừa lần nữa rảo bước đến nhà thầy lang bảo: - Thế là đi đời nhà mày! Bây giờ đến lượt mày chết. Thần Chết đưa tay lạnh giá ra nắm chặt lấy thầy lang, khiến thầy hết đường cựa quậy. Thần điệu thầy đến một cái hang ở âm phủ. Ở đấy có hằng hà sa số là đèn đang cháy, lớn có, nhỡ có, nhỏ có. Lúc nào ngọn này tắt thì lại có những ngọn khác bừng sáng lên, muôn nghìn ngọn lửa chạy đi chạy lại trông tựa như đèn cù. Thần Chết nói: - Mày thấy chưa? Đây là những ngọn đèn sinh mệnh từng người. Những ngọn lớn là của trẻ con, những ngọn nhỡ của vợ chồng đang xuân, những ngọn nhỏ của các cụ già. Nhưng cũng có những đèn sinh mệnh trẻ em và thanh niên mà chỉ có ít ánh sáng. Thầy lang tưởng ngọn đèn sinh mệnh của mình còn to, xin cha đỡ đầu chỉ cho xem. Thần Chết trỏ cho thầy ngọn đèn rất nhỏ, chập chờn sắp tắt. Thầy lang khiếp sợ, nói: - Trời ơi! Cha thân mến, cha hãy thương con thắp cho con ngọn khác, để con được hưởng cuộc đời của con, được lấy nàng công chúa xinh đẹp, được làm vua. Thần Chết nói: - Ta không làm gì được, vì phải có ngọn này tắt trước thì mới thắp ngọn khác lên được. - Vậy thì cha hãy ghép chiếc đèn của con vào một chiếc đèn lớn để đèn con tiếp tục cháy. Thần Chết làm ra bộ chiều ý thầy lang, đi lấy một ngọn đèn to. Nhưng trong thâm tâm, Thần muốn trả thù, nên cố tình đánh rơi chiếc đèn nhỏ xuống đất cho tắt. Thầy lang lăn ra chết ngay và bị Thần Chết bắt đi.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Anh và em gái [/b] Có hai anh em nhà kia mồ côi mẹ. Một hôm, anh dắt em gái đi thủ thỉ nói: - Từ ngày mẹ mất, anh em mình không có lúc nào sung sướng nữa. Mẹ ghẻ hàng ngày đánh đập, xin cái gì thì thượng cẳng chân, hạ cẳng tay đuổi đi. Ăn thì chỉ có mấy miếng bánh mì đầu thừa đuôi thẹo. Con cún ở chân bàn còn sướng hơn anh em mình, thỉnh thoảng nó còn được mẹ ghẻ vứt cho một miếng ngon. Lạy trời phù hộ để mẹ chúng mình thấy tình cảnh này! Thôi em ạ, anh em mình hãy bỏ nhà đi đi. Hai anh em đi suốt hai ngày qua đồng ruộng bãi hoang. Trời đổ mưa, anh bảo em: - Trời khóc cùng với anh em mình đấy. Chiều tối, hai anh em tới một khu rừng to. Chúng đi đường xa, vừa đói vừa mệt, chui vào hốc cây ngủ. Sáng hôm sau, khi chúng bừng mắt dậy thì mặt trời đã lên cao, nắng chiếu vào trong hốc cây. Anh nói: - Em ạ, anh khát quá. Hễ gặp suối là anh uống ngay. Mà nghe như có tiếng suối đâu đây. Anh đứng dậy dắt em đi tìm suối. Mẹ kế vốn là một mụ phù thủy. Mụ đã thấy hai đứa trẻ ra đi nên mụ rón rén bước theo. Mụ phù phép vào tất cả các suối trong rừng. Hai anh em thấy một cái suối chảy như thác bạc xuống đá. Anh muốn uống, nhưng em nghe như có tiếng rì rào trong suối: - Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Em bảo anh: - Em xin anh, anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành thú dữ xé xác em mất. Anh khát đến cháy cổ, vẫn cố nhịn không uống: - Thôi đợi đến suối sau. Tới suối thứ hai, em nghe thấy tiếng rì rào: - Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Em lại bảo anh: - Anh ơi, em xin anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành chó sói ăn thịt em. Anh không uống, nói: - Đến suối sau, em muốn nói gì thì nói, thế nào anh cũng phải uống, anh khát quá rồi. Hai anh em đến suối thứ ba thì em nghe thấy tiếng rì rào: - Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang. Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang. Em bảo: - Ối anh ơi, em xin anh, anh chớ có uống kẻo lại hóa thành con mang bỏ em mà chạy. Nhưng anh đã quì gối, cúi xuống uống nước suối. Môi vừa dính nước thì người đã hóa thành con mang. Em khóc than thương hại cho anh. Con mang cũng khóc lóc và ngồi rầu rĩ bên em. Mãi sau em mới nói: - Anh mang thân mến ơi, anh mang cứ yên tâm, em sẽ không bao giờ rời anh mang ra đâu. Rồi em tháo nịt vàng ra buộc cổ mang, lại đi nhổ cói tết một sợi dây mềm, dắt mang vào rừng sâu. Người và vật đi mãi thì tới một căn nhà nhỏ. Em nhìn vào thấy nhà bỏ không, nghĩ bụng ở lại đấy được. Em đi tìm rêu và lá khô làm đệm cho mang. Sáng sáng, em đi tìm củ, quả dại và hạt dẻ để ăn, lấy cỏ non, đút cho mang ăn. Mang vui thích nhảy nhót quanh em. Buổi tối, khi em mệt, em gối đầu vào lưng mang ngủ một giấc ngon lành. Nếu anh lại biến thành người được thì cuộc đời của hai anh em thật sung sướng. Chúng sống quạnh hiu như vậy một thời gian trong rừng hoang. Một hôm, vua tổ chức một cuộc săn lớn trong rừng. Tiếng tù và, tiếng chó sủa, tiếng người đi săn hò hét cười đùa vang trời. Mang nghe thấy, muốn nhập cuộc quá đi mất. Mang bảo em: - Anh xin em, em hãy cho anh nhập cuộc săn. Anh không chịu được nữa. Mang van xin mãi, em đành để cho đi. Em nói với mang: - Nhưng thế nào chiều tối anh cũng phải về nhé. Em sẽ đóng cửa lại để đề phòng bọn đi săn độc ác. Anh về nhớ gõ cửa nói: "Em ơi em, hãy mở cho anh vào, để em nhận ra anh. Nếu anh không nói thì em không mở cửa đâu nhé". Mang nhảy ra ngoài trời rất là thảnh thơi vui thú. Vua và quần thần thấy con mang đẹp, đuổi theo nhưng không kịp. Lúc tưởng là bắt được đến nơi thì mang nhảy vọt qua bụi cây biến mất. Chiều tối, mang về nhà gõ cửa nói: - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào. Cửa mở, mang nhảy vào, nằm nghỉ suốt đêm trên đệm ấm. Sáng hôm sau, cuộc săn lại bắt đầu, mang ta nghe tiếng tù và, tiếng người đi săn la hò, sốt ruột bảo: "Em ơi em, mở cửa cho anh, thế nào anh cũng phải ra mới được". Em mở cửa cho mang ra và bảo: "Nhưng đến tối anh phải về nhé, nhớ nói câu em dặn". Vua và quần thần vừa thấy con mang đeo vòng vàng thì đuổi theo liền, nhưng mang chạy nhanh hơn họ. Họ dồn mang suốt ngày, đến tối thì vây được mang. Một người bắn trúng chân mang khiến mang bị thương nhẹ, khập khiễng đi không được nhanh. Người đi săn theo dõi mang đến tận căn nhà nhỏ và nghe thấy mang gọi: - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào. Cửa mở ra rồi đóng lại liền. Người đi săn nhớ kỹ những điều mắt thấy tai nghe, kể lại cho vua. Vua phán: "Ngày mai lại đi săn". Em thấy mang bị thương sợ lắm. Em lau sạch máu, đắp lá, bảo mang: - Mang ơi mang, mang ra nằm nghỉ trên nệm đi cho khỏi. Nhưng vết thương nhẹ nên sáng hôm sau mang không thấy đau gì nữa. Thấy ở bên ngoài cuộc săn lại nhộn nhịp, mang bảo: - Mang không nhịn được nữa đâu, mang đi đây. Không phải dễ mà bắt được mang đâu! Em khóc lóc bảo: - Lần này thì họ giết chết anh mất, rồi em ở một mình trong rừng, chẳng ai nghĩ đến em nữa. Không, em không để anh ra đâu. Mang đáp: - Thế thì mang ở đây cũng đến sốt ruột mà chết. Hễ mang nghe tiếng tù và là lòng lại rộn lên. Em không biết làm thế nào, đành rầu rầu mở cửa. Mang vui vẻ, nhảy tót vào rừng. Vua trông thấy mang, ra lệnh cho các người đi săn: - Đuổi nó cho đến đêm, nhưng chớ đụng đến nó. Mặt trời vừa lặn thì vua bảo người đi săn đã đến báo vua lần trước: - Nào đi, ngươi hãy dẫn ta đến căn nhà nhỏ trong rừng. Tới cửa, vua gõ và gọi: - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào. Cửa mở, vua vào, thấy một cô gái đẹp tuyệt trần. Cô sợ quá vì không thấy mang của mình mà lại thấy một người đội mũ miện vàng. Vua nhìn cô rất dịu dàng, cầm lấy tay cô bảo: - Nàng có muốn theo trẫm về cung làm hoàng hậu không? Cô nói: - Thiếp xin vâng, nhưng xin cho mang đi cùng, thiếp không bỏ mang đâu. Vua đáp: - Mang sẽ ở với nàng suốt đời và sẽ không bao giờ bị thiếu thốn gì. Giữa lúc ấy thì mang nhảy vào. Em lấy dây buộc mang, dắt ra khỏi nhà. Vua đặt em lên ngựa cùng ngồi đưa về cung, làm lễ cưới rất to. Em lên ngôi hoàng hậu, hai vợ chồng hưởng hạnh phúc lâu dài. Mang được chăm nom săn sóc, tha hồ nhảy nhót trong vườn thượng uyển. Mụ dì ghẻ ác nghiệt đã làm cho hai anh em phải bỏ trốn, vẫn tưởng là sau đó em bị thú rừng ăn thịt và anh thì bị bắn chết. Khi mụ được tin cả hai anh em đều sung sướng thế thì mụ ghen tức lồng lộn. Mụ lại nghĩ cách hại chúng. Con gái mụ xấu như ma lem, chỉ có độc một mắt, dằn vặt mụ: - Số con phải được làm hoàng hậu cơ! Mụ an ủi con: - Mày cứ yên trí. Tao sẽ không để lỡ dịp đâu. Hoàng hậu đẻ ra một đứa con trai xinh đẹp, trong khi vua đi săn vắng. Mụ phù thủy già chỉ chờ đợi lúc ấy. Nó hóa phép biến thành một người hầu gái, vào trong phòng hoàng hậu nói: - Tâu lệnh bà, nước tắm đã sẵn sàng, mời lệnh bà đi tắm cho khỏe người, lệnh bà đi ngay kẻo nước nguội. Con gái mụ đứng sẵn đó. Hai mẹ con khiêng hoàng hậu mệt lả vào buồng tắm, khóa cửa lại bỏ đi. Chúng hun lửa ở trong buồng tắm để cho bà hoàng hậu trẻ đẹp bị chết ngạt. Mụ già làm xong việc ấy liền đội mũ cho con, đưa vào nằm giường hoàng hậu. Mụ hóa phép cho con biến thành hoàng hậu hình dáng vẻ người y hệt, nhưng không sao chữa được con mắt hỏng cho con. Con mụ đành nằm nghiêng về mé mắt hỏng để vua không nhận ra. Buổi tối, vua đi săn về, nghe nói hoàng hậu sinh con trai mừng lắm, định tới giường hoàng hậu thăm. Mụ già vội nói: - Chớ chớ, bệ hạ chớ có kéo rèm lên. Hoàng hậu chưa nhìn ánh sáng được đâu, phải nghỉ ngơi đã. Vua lui về, không biết có hoàng hậu giả nằm trong giường. Đến nửa đêm, mọi người đều ngủ, người bảo mẫu một mình thức bên nôi Hoàng tử thấy cửa mở ra, hoàng hậu thật bước vào. Bà bế con ở nôi ra, cho con bú. Rồi bà giũ gối cho con, đặt con nằm và đắp chăn cho con. Bà cũng không quên con mang, bà đi tới góc phòng nó nằm và vuốt lưng nó. Sau đó, bà lẳng lặng ra. Hôm sau, người bảo mẫu hỏi lính canh có thấy ai ban đêm vào cung không. Lính canh đáp: - Không, chúng tôi chẳng thấy ai cả. Hoàng hậu đến mấy đêm như thế mà không bao giờ nói một câu gì. Người bảo mẫu nhìn thấy bà nhưng không dám nói hở cho ai biết. Sau một thời gian, hoàng hậu bắt đầu nói trong đêm tối: - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến hai lần nữa thôi. Người bảo mẫu không trả lời, nhưng khi hoàng hậu biến đi, thì chị tìm vua kể lại hết. Vua phán: - Trời! Sao lại có chuyện thế nhỉ! Đêm nay ta sẽ thức trông con. Đến tối, vua vào buồng hoàng tử. Vào khoảng nửa đêm, hoàng hậu lại hiện ra và nói: - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến một lần nữa thôi. Rồi hoàng hậu chăm sóc con như thường lệ, trước khi biến mất. Vua không dám lên tiếng, nhưng đêm sau lại thức. Hoàng hậu nói: - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta đến lần này là lần cuối cùng. Vua không nhịn được nữa, liền chạy lại nói: - Đúng nàng là vợ yêu quí của ta rồi! Bà trả lời: - Thưa đúng, em là vợ của nhà vua. Vừa lúc đó thì nàng sống lại, tươi tắn, hồng hào, khỏe mạnh. Nàng bèn kể lại cho vua nghe tội ác của mụ phù thủy độc ác và con mụ. Vua cho đem hai đứa ra xử. Chúng bị tội chết, án xử xong thì mang lại hiện nguyên hình thành người. Hai anh em cùng nhau sống sung sướng mãi đến khi chết.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Ba bà kéo sợi[/b] Ngày xưa có một cô gái lười biếng, không chịu kéo sợi. Mẹ cô khuyên bảo thế nào cô cũng không nghe. Một hôm, bà mẹ không chịu được nữa, tức quá đánh cô, cô khóc gào lên. Vừa lúc đó, hoàng hậu đi qua nghe tiếng khóc bèn dừng xe lại, vào nhà hỏi bà mẹ vì cớ gì mà lại đánh con gái đến nỗi nó kêu ầm lên thế. Bà mẹ sợ nói con gái mình lười thì xấu hổ, nên mới tâu: - Thần bảo cháu thôi đừng kéo sợi nữa vì nhà nghèo làm gì có cúi đưa cho cháu, nhưng cháu cứ đòi kéo mãi. Hoàng hậu nói: - Ta thích nghe tiếng guồng sợi vù vù lắm. Ngươi cứ cho con gái nhà ngươi đến cung, ta có nhiều cúi, nó tha hồ mà kéo. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm để hoàng hậu đem con gái về cung. Về đến cung, hoàng hậu dẫn cô đến ba buồng đầy ngập cúi rất tốt. Hoàng hậu bảo cô gái: - Con kéo cho hết chỗ cúi này. Kéo xong ta sẽ cho lấy con trai cả ta. Con nghèo khổ ta không kể làm chi, chăm chỉ là của hồi môn quí giá lắm rồi. Cô gái rất lo vì dù có sống đến ba trăm năm và làm việc từ sáng đến tối cũng không sao kéo hết chỗ cúi đó. Cô ngồi khóc một mình ba ngày liền không nhúc nhích. Hôm thứ ba, hoàng hậu tới ngạc nhiên thấy cô vẫn chưa làm gì cả. Nhưng cô thoái thác rằng vì xa mẹ, buồn rầu nên chưa làm được. Hoàng hậu cũng cho là phải, nhưng khi quay gót, dặn rằng: - Mai con phải bắt đầu làm đi nhé. Khi cô gái còn lại một mình một bóng, không biết xoay xở ra sao. Trong lúc bối rối, cô ra đứng cửa sổ. Cô thấy có ba bà đến. Bà thứ nhất có một bàn chân to bèn bẹt. Môi dưới bà thứ hai trễ xuống quá cằm. Bà thứ ba có một ngón tay cái bèn bẹt. Ba bà ngừng lại trước cửa sổ, ngước mắt lên nhìn cô và hỏi cô có việc gì mà phải lo âu. Cô gái kể lể sự tình khốn khổ. Ba bà hứa sẽ đến giúp: - Nếu em bằng lòng mời chúng ta đi ăn cưới em, nếu em không thẹn gọi chúng ta là chị họ, nếu em bằng lòng để chúng ta ngồi cùng tiệc cưới với em, thì chúng ta sẽ kéo sợi giúp cho, chẳng mấy chốc mà xong. Cô gái đáp: - Vâng, em rất đồng ý. Xin mời các chị vào làm ngay cho. Ba bà thợ dệt lạ lùng vào buồng thứ nhất, thu xếp chỗ ngồi và bắt đầu kéo sợi. Bà thứ nhất chắp sợi và đạp guồng. Bà thứ hai rấp nước vào sợi. Bà thứ ba xe chỉ và ấn xuống bàn cho nhẵn. Mỗi lần bà hất ngón tay cái là một con sợi rất mịn rơi xuống đất. Cô gái dấu không cho hoàng hậu biết có ba bà giúp mình. Mỗi khi xe hoàng hậu đến, cô cho hoàng hậu xem số sợi đã xe. Hoàng hậu khen cô hết lời. Cúi buồng thứ nhất xe hết, ba bà xe đến cúi buồng thứ hai. Rồi đến cúi buồng thứ ba, chẳng mấy chốc cũng xe xong. Ba bà từ giao cô và dặn: - Em chớ quên lời hứa nhé, hạnh phúc sẽ tới với em. Sau khi thấy buồng đã hết cúi và những con chỉ chất thành đống, hoàng hậu định ngày cưới. Chú rể sung sướng lấy được vợ khéo léo đảm đang, ca tụng vợ mãi. Cô dâu nói: - Em có ba người chị, họ đã giúp đỡ em nhiều. Trong hạnh phúc của em, em không thể quên các chị ấy được, xin chàng cho phép em mời ba chị đến ăn cưới và dự tiệc với chúng ta. Chú rể và hoàng hậu nói: - Nhẽ nào lại không cho phép? Nghi lễ vừa bắt đầu thì ba bà đến, ăn mặc kỳ quặc. Cô dâu nói: - Em xin chào mừng ba chị! Chú rể hỏi thầm cô dâu: - Chết nỗi, sao em có họ hàng xấu xí thế? Rồi chàng hỏi bà có chân bẹt: - Vì đâu mà chân bà rộng thế? - Vì tôi đạp guồng. Rồi chàng hỏi bà thứ hai: - Vì đâu mà môi mà trễ như thế? - Vì tôi rấp nước bọt vào sợi. Rồi chàng hỏi bà thứ ba: - Vì đâu mà ngón tay cái bà bèn bẹt? - Vì tôi xe chỉ. Hoàng tử khiếp sợ, nói: - Từ nay về sau vợ đẹp của ta không được mó đến guồng sợi nữa. Thế là vợ chàng thoát được cái việc kéo sợi mà cô ta không thích.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Vợ chồng người đánh cá[/b] Ngày xưa có hai vợ chồng người đánh cá ở một túp lều cũ kỹ sát ven biển. Hôm nào người chồng cũng đi câu cá suốt ngày. Một hôm bác buông câu ngồi hết giờ này đến giờ khác, nhìn mặt nước trong veo mà chẳng được con cá nào. Thình lình lưỡi câu chìm sâu xuống tận đáy biển. Người ấy giật lên thì được một con cá đìa to. Cá nói: - Ông đánh cá ơi, tôi van ông, xin ông để tôi sống, tôi không phải là cá đâu, mà là Hoàng tử bị phù phép đấy. Thịt tôi ăn cũng chẳng ngon lành gì. Xin ông thả tôi xuống nước cho tôi bơi đi. Người câu cá đáp: - Chú không cần phải nói nhiều. Cá biết nói thì ta sẵn lòng thả cho đi ngay. Bác thả cá xuống nước, cá lặn xuống tận đáy bể, để lại sau một vệt máu dài. Người câu cá trở về túp lều cũ kỹ. Vợ hỏi: - Thầy nó ơi, hôm nay không câu được gì ư? - Không, tôi bắt được một con cá đìa, nhưng nó nói rằng nó là một Hoàng tử bị người ta phù phép nên tôi lại thả nó xuống. - Thế thầy nó không xin gì ư? - Không biết xin cái gì! - Hừ! Cứ ở mãi một túp lều cũ tồi tàn, hôi hám thì khổ quá. Lẽ ra thầy nó xin nó một chiếc nhà gianh nhỏ mới phải. Thầy nó hãy chạy ngay đi gọi cá mà xin lấy một chiếc nhà gianh nhỏ, chắc thế nào cũng được. - Chà! Quay lại làm quái gì? - Úi chà! Bắt được nó mà thả nó ra, thì nhất định nó phải cho. Thầy nó cứ đi ngay đi. Người đánh cá ngần ngại nhưng lại chẳng muốn trái ý vợ. Lúc bác tới bể thì thấy nước đục, vừa xanh, vừa vàng. Bác lại gần mặt nước, gọi: - Cá đìa yêu quý của tôi ơi, Indêbin vợ tôi nó mong ước một điều. Cá bơi lên ngay hỏi: - Điều ước gì đó? - À, lúc nãy tôi bắt được chú, vợ tôi nó trách tôi sao không xin gì chú. Nay nó không muốn ở túp lều cũ kỹ nữa, nó muốn có nhà gianh. - Ông cứ về đi, vợ ông có nhà gianh rồi đấy. Người đánh cá về thì không thấy vợ ở túp lều nữa mà đang ngồi ở ghế dài trước cửa một ngôi nhà gianh xinh xinh. Vợ nắm lấy tay chồng nói: - Mình vào mà xem, bây giờ hơn trước nhiều rồi đấy chứ! Hai vợ chồng cùng vào trong nhà thì thấy có phòng đợi, phòng khách, buồng ngủ kê hai giường cho hai vợ chồng. Lại có buồng ăn và nhà bếp đầy đủ nồi niêu xanh chảo bằng đồng bằng thiếc, sáng choang. Sau nhà có một cái sân con, gà vịt chạy tung tăng và một mảnh vườn nhỏ trồng rau và cây ăn quả. Vợ nói: - Mình xem, thích đấy nhỉ? - Ừ thích thật đấy, chúng ta ở đây sung sướng lắm rồi. - Để xem sao đã. Hai vợ chồng ăn xong đi ngủ. Ở nhà gianh được mươi mười lăm ngày, người vợ nói: - Này mình ơi, thật ra thì nhà, sân và vườn hẹp quá! Cá có thể cho ta nhà rộng hơn. Tôi thích lâu đài to xây bằng đá kia. Mình đi xin cá nhé. Chồng nói: - Chà! Nhà ở thế này là vừa lắm rồi, cần quái gì ở lâu đài. - Thì mình cứ xin đi, thế nào cá cũng cho. - Thôi, mình ạ, cá vừa mới cho nhà này, tôi chẳng đi nữa sợ quấy rầy cá. - Thì cứ đi đi nào, chắc cá sẽ vui lòng cho. Người đánh cá thấy phiền quá không muốn xin, nghĩ bụng: “Thật quả không biết điều chút nào”. Nhưng rồi bác vẫn cứ đi. Khi đến bờ biển, bác thấy nước màu tím, xanh thẫm, xám, gợn sóng, nước không xanh và vàng như lần trước, nhưng cũng chưa đến nỗi động bể. Bác gọi cá và bảo: - Cá ơi cá, Indebin vợ tôi nó ước mong một điều. Cá hiện lên hỏi: - Điều gì thế bác? Người đánh cá nói, có ý hơi ngượng: - Nhà tôi muốn có lâu đài bằng đá. - Bác cứ về đi, bác gái đang đợi bác ở cửa đấy. Người đánh cá trở về, tưởng lại thấy nhà gianh như cũ. Nhưng không, nhà gianh đã biến thành một tòa lâu đài bằng đá. Vợ bác đang đứng trên bậc thềm cao, sắp sửa quay gót đi vào. Vợ nắm tay chồng, nói: - Mình vào với tôi. Hai vợ chồng cùng vào. Trong lâu đài có phòng đợi rộng thênh thang lát bằng đá cẩm thạch, gia nhân đi lại mở cửa nhộn nhịp. Tường treo rèm rực rỡ. Phòng nào cũng bày bàn ghế bằng vàng, trần có treo đèn pha lê, nền giải thảm. Bàn nào cũng bày la liệt những món ăn ngon cùng rượu quý. Đằng sau lâu đài có sân rộng, chuồng ngựa, chuồng bò và những cỗ xe lộng lẫy, còn có cả một khu vườn lớn trồng đủ thứ hoa thơm cỏ lạ và cây ăn quả. Thêm vào đó lại có một cánh rừng nhỏ dài nửa dặm, đủ các loài vật như hươu nai, thỏ. Người vợ hỏi: - Thế nào, thầy nó, đẹp quá nhỉ! Chồng nói: - Đẹp lắm! Giá cứ được như thế này mãi! Bây giờ được ở lâu đài thì mãn nguyện rồi chứ. Vợ nói: - Để rồi xem sao. Ta hãy đi ngủ cái đã. Rồi hai vợ chồng bèn đi ngủ. Hôm sau, vợ tỉnh giấc trước. Trời đã sáng bạch. Nằm trên giường, bác nhìn thấy phong cảnh ruộng đồng đẹp vô cùng. Chồng vươn vai tỉnh dậy. Vợ lấy khuỷu tay hích chồng bảo: - Mình ơi, dậy ra cửa sổ mà trông. Ước gì ta được làm vua cả miền này! Mình hãy đi tìm cá, xin cá cho làm vua đi. - Làm vua làm gì, tôi không thích đâu. - Nếu thầy nó chẳng muốn làm vua thì mặc thầy nó, tôi làm nữ vương vậy. Thầy nó cứ đi tìm cá xin cho tôi làm nữ vương đi. - Úi chà! Sao nhà nó lại muốn làm nữ vương? Tôi chẳng dám xin đâu. - Sao lại không! Thầy nó đi ngay đi, tôi muốn làm nữ vương cơ. Người chồng thấy vợ muốn làm nữ vương buồn lắm, tự nghĩ: “Như thế thật quả là không được đúng”. Bác trù tính không muốn đi, nhưng rồi nể vợ lại đi. Ra đến biển, bác thấy nước xám đen, sôi sục và thối hoăng. Bác gọi cá bảo: - Cá ơi cá, Indêben vợ tôi nó ước mong một điều. - Điều gì? - Trời ơi! Nó muốn làm nữ vương! - Bác cứ về đi, bác gái thành nữ vương rồi. Về đến nhà, bác thấy lâu đài đồ sộ, trang hoàng rực rỡ, có lính gác cổng, có quân đánh trống thổi kèn. Vào trong nhà thấy tuyền là đá cẩm thạch và vàng, thảm nhung, rương vàng. Cửa điện rộng mở, tất cả triều đình đều có mặt. Vợ bác ngồi trên ngai vàng, đầu đội mũ miện vàng, tay cầm hốt vàng dát ngọc, mỗi bên có sáu cung nữ sắp hàng đứng hầu, người nọ thấy hơn người kia một đầu. Bác lại gần nói: - Ai chà! Nhà đã thành nữ vương rồi đó à? - Phải, bây giờ tôi đã là nữ vương. Bác đứng ngắm vợ hồi lâu rồi bảo: - Này, nhà làm nữ vương thì thỏa thích lắm rồi. Bây giờ hẳn chẳng còn gì mong ước nữa nhỉ. Vợ bứt rứt trả lời: - Không phải thế đâu, tôi chán ngấy rồi. Thầy nó hãy đi tìm cá, xin cho tôi làm nữ hoàng. - Chà chà! Sao nhà nó lại muốn làm nữ hoàng? - Thầy nó cứ nói với cá cho tôi làm nữ hoàng đi. - Nhà này, tôi không dám xin thế, cá chẳng cho đâu. Làm nữ hoàng trị vì cả một nước lớn. Cá không thể cho nhà làm nữ hoàng được đâu, chắc chắn là không được đâu. - Hừ! Tôi làm nữ vương, thầy nó chẳng qua chỉ là anh chồng tôi thôi. Nhà có đi ngay không? Nhà đi ngay đi! Cá đã có thể làm cho nữ vương thì cá có thể cho làm nữ hoàng được. Tôi muốn làm nữ hoàng cơ mà. Thầy nó phải đi ngay. Thế là chồng đành phải đi. Bác vừa đi vừa lo ngay ngáy, nghĩ bụng: “Thật quả là không biết điều. Thật là quá đáng. Cá cũng đến phát chán”. Khi đến bờ biển, bác thấy nước đen ngòm, nổi bọt lên sùng sục, sóng gió ầm ầm. Bác rét run, gọi cá đến bảo: - Cá ơi cá, Indêben vợ tôi nó ước mong một điều. - Lại điều gì nữa? - Trời ơi, nó muốn làm nữ hoàng. - Bác cứ về đi, bác gái thành nữ hoàng rồi đấy. Người đánh cá quay gót trở về. Khi tới nhà thì thấy toàn bộ lâu đài làm bằng đá cẩm thạch bóng lộn, lại có cả tượng bằng đá trắng, đồ trang trí bằng vàng. Trước cổng có lính thổi kèn đáng trống. Các bậc công hầu đứng chầu nhộn nhịp bên trong. Họ mở cổng cho bác vào, cửa bằng vàng nguyên chất. Bác thấy vợ ngự trên ngai đúc bằng vàng cao hai thước, đầu đội mũ miện vàng cao hơn ba tấc, nạm ngọc và kim cương, một tay cầm quả cầu tượng trưng ngôi nữ hoàng. Hai lính ngự lâm sắp thành hai hàng, từ người khổng lồ cao hai trượng đến người lùn xíu vừa bằng ngón tay út. Trước mặt vợ bác, một đám đông vua chúa đứng hầu. Bác tiến vào giữa đám người đó và bảo vợ: - Này nhà, bây giờ nhà đã là nữ hoàng rồi nhỉ? - Phải tôi là nữ hoàng rồi. Bác đứng ngắm vợ hồi lâu rồi nói: - Này nhà làm nữ hoàng thích lắm nhỉ. Vợ nói: - Thầy nó làm gì mà cứ đứng đực ra đấy? Nay tôi đã được làm nữ hoàng rồi, nhưng tôi lại muốn làm Giáo hoàng kia. Thầy nó đi tìm cá đi. - Chết rồi, nhà đòi thế không được đâu. Khắp thế giới công giáo chỉ có một vị giáo hoàng thôi, cá không làm được việc ấy đâu. - Tôi muốn làm Giáo hoàng, thầy nó đi ngay đi. Tôi muốn là Giáo Hoàng ngay ngày hôm nay. - Nhà ạ, tôi chẳng dám xin đâu, không thể được đâu! Như thế quá đáng, cá không thể cho nhà làm Giáo Hoàng đâu. - Gớm, nói lôi thôi mãi. Cá cho tôi làm nữ hoàng được thì cũng cho tôi làm Giáo Hoàng được chứ! Thầy nó đi ngay đi. Tôi là nữ hoàng còn thầy nó là chồng tôi thôi. Thầy nó có chịu đi hay không thì bảo? Bác trai sợ phải ra đi, bụng phân vân, người run cầm cập, chân đi lẩy bẩy. Gió thổi ào ào, mây đen phủ kín khiến bầu trời tối xám. Lá cây rào rào, sóng vỗ vào bờ ầm ầm. Đằng xa, những con tàu bị sóng đánh ngả nghiêng phải bắn súng báo động. Giữa trời còn có một điểm xanh. Nhưng chung quanh mây đã kéo kín đặc, báo hiệu một trận bão to. Bác lại gần mặt nước, khiếp sợ nói: - Cá ơi! Tôi đã hết sức can ngăn mà Indêben vợ tôi nó vẫn ước mong một điều. - Điều gì thế bác? - Trời ơi, nó muốn làm Giáo hoàng. - Bác cứ về đi, bác gái làm Giáo hoàng rồi đấy. Bác về tới nhà thì thấy một nhà thờ rộng mông mênh, chung quanh san sát những lâu đài. Bác phải rẽ đám đông mới vào được. Ở trong thắp hàng trăm nghìn đèn nến sáng trưng. Vợ bác phủ vàng từ đầu đến chân, ngự trên ngai vàng cao hơn ngai vàng trước nhiều, đầu đội ba cái mũ miện bằng vàng, chung quanh có đông đảo giáo sĩ. Hai bên có hai hàng nến, cây lớn nhất to và cao như ngọn tháp lớn, cây bé nhất chỉ bằng cây đền nhà bếp, các vua chúa thì quỳ xuống hôn giầy bác gái. Bác ngắm vợ rồi nói: - Thế là nhà trở thành Giáo hoàng rồi nhỉ? - Phải tôi đã là Giáo Hoàng rồi. Bác đứng ngẩn ra ngắm vợ y như nhìn mặt trời. Một lát sau bác nói: - Nhà là Giáo hoàng thì thích lắm nhỉ! Vợ ngồi im như khúc gỗ, chẳng đáp. Bác lại nói tiếp: - Nhà này, bây giờ đã được làm Giáo hoàng thì chắc mãn nguyện rồi, không còn gì hơn nữa mà mong. - Để xem sao đã. Rồi vợ chồng đi ngủ. Nhưng vợ không sao ngủ được vì lòng tham chưa thỏa cứ nghĩ mãi xem có làm gì hơn được nữa không. Chồng đi cả ngày mệt, ngủ một mạch đến sáng. Còn vợ thì suốt đêm trằn trọc không sao ngủ nhắm mắt, tưởng đến cách làm to hơn nữa mà nghĩ không ra. Trời rạng đông, bác ngồi nhổm dậy trông ra ngoài. Thấy ánh nắng chiếu qua cửa sổ, bác nghĩ " Ước gì mình sai khiến được mặt trời, mặt trăng mọc". Bác bèn lấy khuỷu tay hích vào chồng mà nói: - Thầy nó ơi, dậy đi tìm cá, bảo cá tôi muốn được y như chúa trời. Chồng còn đang ngái ngủ nghe vợ nói, giật mình ngã xuống đất. Bác ngỡ là nghe lầm, dụi mắt, hỏi: - Nhà vừa nói gì thế? - Thầy nó ạ, nếu tôi không sai được mặt trời mặt trăng mọc, và nếu tôi thấy mặt trời mặt trăng mọc mà không theo lệnh tôi thì tôi không chịu được đâu. Nếu chính tôi không làm cho mặt trời mặt trăng mọc thì tôi sẽ không lúc nào yên đâu. Vợ nhìn chồng với một con mắt dữ tợn, khiến chồng lạnh toát xương sống và nói: - Thầy nó đi ngay đi, tôi muốn làm Chúa trời. Chồng quỳ trước mặt vợ, can: - Nhà ạ, cá không thể làm việc đó đâu. Cá có thể làm cho nhà làm nữ hoàng, làm Giáo hoàng là cùng. Tôi van nhà, nhà nên biết điều, cứ làm Giáo hoàng thôi. Bác gái khùng lên, xõa tóc tung ra, xé áo, đạp chồng thét lên: - Tôi không chịu nổi nữa, thầy nó phải đi ngay đi! Chồng vội mặc quần áo, chạy ra đi, như người mất trí. Bão ầm ầm, bác đi không vững bước. Nhà cửa cây cối rung động, núi chuyển đá lăn xuống bể. Trời đen tối như mực, sấm vang chớp nhoáng, bể nổi sóng đen kịt và cao như gác chuông nhà thờ, như núi, trắng xóa bọt bể. Bác kêu lên mà cũng không thể nghe thấy tiếng gọi của mình. - Cá ơi cá, tôi đã ngăn mãi mà Indêben vợ tôi nói cứ ước mong một điều. - Điều gì? - Nó muốn làm Chúa trời. - Bác về đi sẽ thấy bác gái lại ở túp lều như xưa. Thế là từ đó hai vợ chồng lại cứ túp lều cũ mãi cho đến ngày nay.