Truyện cổ Andersen

[b]Con chim họa mi - P1[/b] Ở Trung Quốc, nơi mà Hoàng đế là một người Trung Quốc và tất cả quần thần cũng là người Trung Quốc, các bạn hẳn cũng biết điều đó, đã có một câu chuyện. Câu chuyện này xảy ra lâu lắm rồi, nhưng chính vì thế mà phải kể lại để người ta khỏi quên đi. Cung điện của Hoàng đế đẹp nhất trần gian, làm bằng một loại sứ rất quý, nhưng dễ vỡ, mỗi khi chạm đến phải thật nhẹ tay, nhẹ chân. Trong vườn Thượng uyển trồng toàn những loại hoa quý, rất kỳ lạ, những bông hoa đẹp nhất phải đeo lục lạc bằng bạc để cho du khách khi đến xem phải lưu ý. Khu vườn được chăm sóc kỳ công và trải rộng, ngay người làm vườn cũng không biết đến đâu là hết. Càng đi càng gặp nhiều điều kỳ thú, những cây cao bóng cả vươn dài, những hồ rộng mênh mông sâu thẳm. Rừng thoai thoải xuống biển, trên làn nước xanh những con thuyền lớn có thể lướt dưới bóng cây. Nơi đây có con hoạ mi thường cất tiếng hót mê hồn. Một anh thuyền chài nghèo khổ lòng chứa chất bao nỗi lo toan dăng lưới đi qua, nghe tiếng chim hót cũng phải dừng lại nghe. Anh reo lên: "Trời ơi, Thánh thót biết bao". Nhưng rồi mải mê với công việc, anh ta quên chim ngay. Đêm sau đi dăng lưới qua đấy, anh lại nghe tiếng chim hót: anh lại đứng lại nghe và lại reo lên: "Trời ơi, Thánh thót biết bao". Khách tham quan từ nhiều nước trên thế giới kéo đến hoàng thành. Họ ca ngợi hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng khi nghe hoạ mi hót, họ đồng thanh reo lên: "Đấy mới là điều kỳ diệu". Trở về quê hương, họ thuật lại những điều mắt thấy tai nghe. Nhiều học giả đã viết thành sách ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng người ta ca tụng hoạ mi nhiều hơn cả, những thi sĩ nổi tiếng đã làm những bài thơ kiệt tác để ca ngợi con chim hoạ mi hót hay trong khu rừng bên bờ biển. Sách được truyền đi khắp nơi, có quyển lọt vào tay Hoàng đế. Người chăm chú đọc, nhiều lúc gật đầu tán thưởng những đoạn văn hay ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển. Đọc tiếp, người thấy có đoạn viết: "Nhưng con chim hoạ mi mới thật là kỳ diệu!" Hoàng đế ngạc nhiên: - Gì thế này? Con chim hoạ mi à? Sao ta lại không biết nhỉ? Có đúng là trong giang sơn ta; hơn nữa lại ngay trong vườn của ta, lại có một con chim như thế không? Ta chưa hề nghe nói bao giờ, lạ thật! Hoàng đế truyền gọi quan thị lang là người cầm quyền cao chức trọng; mỗi khi có kẻ dưới đến trình báo hay thỉnh cầu điều gì, ngài chỉ trả lời cộc lốc: "Hớ!" Hoàng đế phán hỏi: - Ở đây chừng như có một con chim người ta gọi là hoạ mi. Thiên hạ cho rằng con chim này là loại chim quý hiếm. Vậy sao chưa thấy ai tâu với Trẫm?" Quan thị lang thưa: - Muôn tâu bệ hạ, chính hạ thần cũng chưa nghe thấy nói bao giờ và cũng chưa thấy ai đem đến tiến cử. - Vậy ngay tối nay phải đem nó đến hót cho Trẫm nghe. Thiên hạ biết đến vật báu của Trẫm mà riêng Trẫm lại không biết! Quan Thị Lang tâu: - Muôn tâu bệ hạ, thực tình hạ thần chưa hề thấy con chim ấy, nhưng hạ thần xin đi tìm nhất định sẽ tìm được. Nhưng tìm đâu? Quan Thị Lang đã leo lên khắp lầu son gác tía, qua khắp các cung điện và đường lối đi lại, gặp ai cũng hỏi, nhưng chẳng ai biết gì về chim hoạ mi cả. Quan Thị Lang lại vào chầu hoàng đế: - Tâu thánh thượng - Ngài nói - Có lẽ sách đã đánh lừa độc giả, xin bệ hạ đừng tin, đây chỉ là chuyện hoang đường. Hoàng đế phán: - Những sách ta xem là những sách của Hoàng đế Nhật Bản gửi tặng, lẽ nào lại là chuyện bịa đặt? Trẫm muốn được nghe chim hoạ mi hót ngay tối nay. Trẫm sẽ ban thưởng cho chim nhiều ân huệ. Nếu không đưa được hoạ mi đến thì cả triều đình sẽ bị phạt giẫm lên bụng sau khi ăn cơm no. Quan Thị lang cúi chào Hoàng thượng ra về. Rồi ngài chạy tới chạy lui, leo lên leo xuống, khắp cả lầu son gác tía, vào khắp các phòng trong hoàng cung, sục sạo mọi ngõ ngách, một nửa triều thần cũng làm như thế, vì chẳng ai muốn chịu tội giẫm lên bụng. Rõ là một cuộc chạy đua loạn xạ để tìm một con chim cả thiên hạ biết tiếng chỉ trừ Hoàng đế và đình thần. Cuối cùng họ vớ được một cô bé thị tì. - Trời ơi! - Cô bé kêu lên - Con chim hoạ mi! Cháu biết! Nó hót hay lắm! Chiều nào mang cơm thừa cho mẹ đang ốm, lúc về mỏi chân đứng nghỉ trong rừng, cháu cũng được nghe nó hót. Những lúc ấy cháu thấy sung sướng đến chảy nước mắt như khi được mẹ cháu ôm hôn vậy. Quan Thị lang nói như reo: - Cháu bé ngoan lắm! Cháu hãy đưa ta đến chỗ hoạ mi đậu, ta sẽ ban cho cháu một chức vị ở trong nhà bếp và cho phép cháu được vào xem Hoàng đế ngự thiện. Cháu cần đi ngay vì tối nay đã phải đem chim đến hót cho Hoàng đế nghe. Cả một nửa triều đình theo con bé thị tì vào rừng nơi có hoạ mi hót. Dọc đường bỗng nghe tiếng bò rống, một thị đồng reo lên: Hoạ mi đấy! Chim gì mà lớn tiếng thế! Hình như tôi đã được nghe ở đâu rồi! Nữ tì nói: - Không phải đâu! Bò rống đấy! Còn phải đi lâu mới tới! Lúc sau lại có tiếng ì uôm của một con ễnh ương ở trong ao. Pháp tăng trong triều cũng đi theo đoàn reo lên: - Hoạ mi đấy! Nghe sao mà thánh thót thế! Chưa bao giờ bần tăng được nghe một giọng chim hót hay như thế! Nữ tì nói: - Không phải đâu! Đấy là ễnh ương! Đi thêm một quãng, thị tì bảo mọi người: - Hãy im lặng mà nghe! Nó đấy! Hoạ mi đấy - Thị tì nói và chỉ một con chim nhỏ lông xám đang đậu trên một cành cây. Quang Thị lang ngạc nhiên: - Hoạ mi đấy à? Ta cứ tưởng nó đẹp kia chứ? Bộ lông nó trông tầm thường quá! Hay là trước mặt đông đủ quần thần nó sợ, tái sắc đi? Thị tì cất tiếng gọi: - Hoạ mi ơi! Hoàng đế muốn nghe hoạ mi hót đấy. - Rất vui lòng! - Hoạ mi trả lời. Và cất tiếng hót thánh thót mê hồn. Quan thị lang khen: - Nghe trong như những tiếng nhạc bằng pha lê. Cái cổ họng nó xinh xắn cứ phập phồng. Thế mà chưa bao giờ được nghe hoạ mi hót cũng tiếc thật. Vào hoàng cung chắc nó sẽ được triều đình và hoàng gia nhiệt liệt hoan nghênh. Tưởng hoàng đế có mặt ở đấy, hoạ mi hỏi: - Tôi có phải hót lần nữa cho thánh thượng nghe không? Quan thị lang nói: - Hoạ mi ơi! Người hãy theo chúng ta về cung hót cho Hoàng đế mê say. - Giọng hót của tôi ở chốn rừng này, dưới vòm cây này, mới là hay nhất. Hoạ mi nói thế, nhưng khi biết Hoàng đế muốn nó đến hót tại hoàng cung, nó cũng vui lòng đi theo. Ở hoàng cung người ta đã chuẩn bị tiếp thật long trọng. Hàng ngàn cây đèn bằng vàng sáng chói trên sân rồng và trên các bệ bằng sứ. Hàng hiên rực rỡ những chậu hoa hiếm thấy, chuông bạc ngân vang mỗi khi gió thoảng nhẹ. Chính giữa đại diện, nơi Hoàng đế ngự có để sẵn một cành cây bằng vàng cho chim đến đậu. Văn võ bá quan tề tựu đông đủ; cả cô thị tì mới được phong chức đầu bếp, cũng được phép đến nấp nghe sau cánh cửa. Các quan đều mặc phẩm phục, chăm chú chiêm ngưỡng con chim màu xám đang líu lo trên cành vàng. Hoạ mi hót hay đến nỗi Hoàng đế xúc động, sụt sùi, nước mắt giàn giụa. Người rất hài lòng, truyền đeo chiếc thẻ bà bằng vàng vào cổ chim để thưởng công. Nhưng hoạ mi khước từ nói: - Như thế này là vinh dự cho tôi lắm rồi! Được thấy những giọt nước mắt của Hoàng đế nhỏ khi nghe tôi hót là một ân huệ lớn đối với tôi. Hoạ mi lại cất tiếng hót êm đềm thấm thía như để tạ ơn. Các bà phu nhân thì thào với nhau: - Không còn gì tuyệt bằng. Có bà còn ngậm tí nước vào miệng, khẽ lấy giọng ro ro trong cổ bắt chước tiếng chim. Trong bụng nghĩ cứ làm như thế giọng các bà sẽ biến thành giọng hoạ mi. Ngay cả các nữ tì, thị vị, những người khách khó tính nhất cũng nhiệt liệt ca ngợi giọng hót của hoạ mi.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]P2- Con chim họa mi [/b] Như vậy hoạ mi được cả triều đình và hoàng gia ca ngợi. Hoàng đế truyền ban cho hoạ mi một chiếc lồng sơn son treo trong cung, chim được phép ra ngoài mỗi ngày hai lần mỗi đêm một lần. Mỗi khi ra ngoài chim được mười hai quan hầu đi theo, mỗi người nâng một sợi tơ buộc vào chân chim. Kiểu du ngoạn như vậy, hoạ mi chẳng thích thú gì. Cả kinh thành náo nức về con chim. Ai đẻ con cũng muốn đặt tên là hoạ mi, kể cả những đứa có giọng khàn khàn. Một hôm Hoàng đế nhận được một gói gửi đến bên ngài đề hai chữ "Hoạ mi". Hoàng đế mở gói, bụng nghĩ chắc lại là một quyển sách nói về chim Hoạ mi. Nhưng không phải. Trong gói lại là một con hoạ mi nhân tạo, giống hệt con hoạ mi thật, mình, dát đầy kim cương, ngọc xanh ngọc đỏ. Hễ vặn máy chim lại hót lên như hoạ mi thật, cái đuôi vẫy vẫy óng ánh sợi vàng sợi bạc. Cổ chim hoạ mi đeo một cái vòng, trên khắc dòng chữ: "Tôi là hoạ mi của Hoàng đế Nhật Bản, tôi chưa sánh được với Hoạ mi của hoàng đế Trung Hoa". Cả triều đình reo lên: - Tuyệt quá! Hoàng đế phong cho người mang hoạ mi giả một chức vị cao và ban thưởng. Triều thần có người bàn cho hai con chim cùng hót, để được nghe một bản song ca của hai con chim hoạ mi tuyệt diệu. Người ta đã thử nhưng không được, vì con chim hoạ mi thật hót một kiểu riêng của nó, còn hoạ mi giả cứ hót theo nhịp ba. Quan chưởng nhạc đã biện hộ cho hoạ mi máy nói rằng nó hót không sai đâu, rất đúng nhịp, tôi cũng thường dạy trên lớp như thế. Nghe quan chưởng nhạc nói vậy, người ta bèn cho chim giả hót một mình. Nó hót rất hay, chẳng kém gì chim thật, lại đẹp nữa, lúc nó hót cứ lóng lánh như nạm kim cương. Nó có thể hót thông luôn một lúc ba mươi lần mà vẫn hay, người nghe không thấy chán, vẫn cứ muốn nghe nữa. Nhưng Hoàng đế truyền để chim thật hót một lúc. Nhưng nhìn trước nhìn sau chẳng thấy chim thật. Thì ra trong lúc mọi người mải mê nghe chim giả hót thì chim thật đã bay về chốn rừng xanh. Hoàng đế sửng sốt: - Thế là thế nào? Quần thần tỏ vẻ tức giận, kết tội chim vong ân bội nghĩa. Cũng có người an ủi như vậy còn là may vì còn giữ được con hay nhất. Thế là chim giả lại phải hót, có một bài mà nó cứ hót đi hót lại đến mấy chục lần. Quan chưởng nhạc hết lời ca tụng chim máy, quan quả quyết nó hơn hẳn chim thật, không chỉ vì nó có bộ lông đẹp mà chính vì tài nghệ của nó. - Muôn tâu bệ hạ - quan chưởng nhạc trình lên Hoàng đế - với con chim thật, chẳng ai biết được nó sẽ hót bài gì; nhưng với con chim máy thì các bài hót được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cứ mở máy các bài sẽ lần lượt hót lên. Cứ việc tháo máy ra, xem các bánh xe sắp đặt thế nào thì hiểu được cách chuyển động của máy và cách phát ra tiếng hót. Mọi người tán thành ý kiến của quan chưởng nhạc. Hoàng đế phán rằng phải để dân chúng được nghe chim máy hót, nên chủ nhật quan Chưởng nhạc đem chim máy cho dân chúng nghe. Dân chúng được nghe hoạ mi hót, ai cũng tấm tắc khen, sau mỗi bài mọi người lại chỉ tay lên trời, lắc đầu kêu "ồ"! Nhưng có một anh thuyền chài nghèo, đã nhiều lần được nghe hoạ mi hót, lại nói như thế này. - Khá hay đấy! Khá giống hoạ mi thật đấy! Nhưng nghe như còn thiếu một cái gì ấy. Vậy là chim thật đã ra khỏi hoàng cung; chim máy được đưa lên địa vị độc tôn. Người ta đặt nó trên một đệm gấm, bên cạnh giường ngự, xung quanh xếp đầy những bội tinh, châu báu, vàng ngọc là những thứ chim được ban thưởng. Nó được hoàng đế phong cho chức tước cao quý. Về ngôi thứ lâm triều, chim được xếp hàng đầu, bên trái, là thứ bậc cao nhất triều đình. Quang chưởng nhạc viết một pho sách mười lăm chương ca tụng chim hoạ mi máy, lời lẽ uyên bác, cao siêu. Ai đọc bộ sách ấy cũng gật gù tỏ ra thông hiểu, để khỏi mang tiếng dốt nát. Sau một năm, Hoàng đế ,triều thần, và cả nước đều thuộc lòng những bài do chim máy hót. Người ta có thể đồng ca với chim. Từ Hoàng đế đến chú bé ngoài phố cũng biết hót. Rõ thật là hay! Nhưng một hôm, chim máy đang hót cho Hoàng đế nghe thì bỗng có tiêng kêu đánh sạch trong bụng chim. Dường như có cái gì bị gẫy, các bánh xe quay loạn xạ nghe xoàn xoạt, rồi chim ngừng hót. Hoàng đế truyền gọi quan ngự y đến bắt mạch chữa cho chim. Nhưng quan ngự y từ chối vì không thuộc chuyên môn của người. Triều đình phải cho gọi một thợ chữa đồng hồ đến. Anh thợ đồng hồ tháo tung cỗ máy xem xét nói rằng các bánh xe mòn nhiều, không có đồ thay; chỉ có thể lắp lại dùng tạm, mỗi năm chỉ được cho chim hót một lần. Nghe tin thần dân cả nước bàng hoàng. Tiếng chim máy hót bây giờ nghe rèn rẹt, nhưng quan chưởng nhạc vẫn khăng khăng rằng tiếng chim máy hót vẫn du dương như trước. Năm năm sau, nhân dân trong nước nghe một tin dữ. Hoàng đế muôn vàn kính yêu của họ lâm bệnh nặng, không cứu chữa được. Đình thần đã chọn người kế vị. Dân chúng nhớn nhác đến dinh quan thị lang hỏi thăm tin tức. Hoàng đế tái ngắt, giá lạnh trong long sàng. Văn võ bá quan tưởng người đã băng hà rối rít, xun xoe quanh vị vua mới. Tróng khi đó thị vị và nữ tì vui chơi, thoả thích chuyện gẫu và uống nước chè. Hoàng đế đáng thương đang hấp hối, người chỉ còn thoi thóp thở. Cảm thấy có vật gì đè lên ngực, người mở mắt và nhìn thấy thần chết đang cười với người. Thần chết đã lột mũ miện của người, một tay cầm xạ kích một tay cầm hoàng kỳ. Từ các nếp màn che quanh long sàng ló ra những cái đầu lâu kỳ quái; có những cái trông gớm ghiếc, lại có những cái trông nhân từ. Đó là công đức và tội lỗi của Hoàng đế hiện về trong khi thần chết đè nặng lên trái tim người. - Còn nhớ không? Nhà vua còn nhớ không? Cái đầu lâu lần lượt hỏi tội nhà vua. Chúng kể ra không biết bao nhiêu là tội, khiến nhà vua toát hết cả mồ hôi và kêu lên: - Nhưng ta đâu có biết những chuyện ấy? Rồi ngài hô: - Cử nhạc lên! Khua trống cái lên! Ta không muốn nghe những lời ma quái nữa! Mặt ma vẫn cứ trơ trơ, còn thần chết thì vẫn lắc lư cái đầu. Hoàng đế lại thét lên: - Cử nhạc! Cử nhạc mau! Chim vàng thân yêu! Hãy hót đi! Hót lên! Ta sẽ ban thưởng cho người vàng bạc, châu báu và chiếc bài vàng. Hót lên! Hót lên đi! Nhưng chẳng có ai vặn máy, nên chim cứ im lìm. Còn thần chết thì vẫn giương đôi mắt thao láo, trống hốc, nhìn chằm chằm Hoàng đế. Giữa lúc đó, từ ngoài cửa sổ nổi lên tiếng hót tuyệt vời. Chim hoạ mi bé nhỏ đã từ rừng xanh bay về đậu trên cành cây ngoài vườn. Nghe tin Hoàng đế ốm nặng, chim đã bay về mang lại cho người nguồn sinh lực bằng tiếng hót của mình. Tiếng hót của hoạ mi vang lên, bóng ma tan dần, máu lại lưu thông trong huyết quản của nhà vua. Thần chết cũng phải lặng đi trước tiếng hót của hoạ mi, rồi lại khuyến khích: - Cứ hót đi! Hoạ mi! Cứ hót đi! - Được! nhưng phải trao lại kiếm vàng và mũ miện cho Hoàng đế! Sau mỗi bài hót của chim, thần chết lại trao trả một bảo vật. Chim tiếp tục hót, ca ngợi cảnh thanh bình nơi nghĩa trang đầy hoa thơm, cỏ lạ. Thần chết không cầm nỗi lòng mong muốn trở lại khu vườn của mình, đã hoá thành một đám mấy trắng bay qua cửa sổ và biến mất. Hoàng đế reo lên: - Cảm ơn chim! Cảm ơn chim yêu quí! Ta đã nhận ra hoạ mi rồi. Ta đã vô tình để chim ra khỏi hoàng cung, vậy mà chim vẫn quay về, lại giúp ta xua đuổi tà ma, cứu ta ra khỏi tay thần chết. Ơn ấy không bao giờ ta quên. Hoạ mi đáp: - Nhà vua ban thưởng cho chim nhiều rồi. Những giọt nước mắt, nhà vua nhỏ lần đầu tiên nghe chim hót, chim không bao giờ quên cảnh tượng ấy. Đối với một ca sĩ, không có vàng bạc châu báu nào quý giá bằng. Bây giờ xin Hoàng đế yên nghỉ để hoạ mi hót cho người nghe cho mau bình phục. Rồi hoạ mi lại hót, hoàng đế lại thiếp đi trong giấc ngủ hồi sinh êm đềm. Lúc ánh bình minh chiếu qua cửa sổ rọi tới long sàng, nhà vua tỉnh giấc trong người sảng khoái vô cùng. Chung quanh chẳng có ai đến hầu, vì họ yên trí vô nhà vua đã băng hà. Duy chỉ có hoạ mi vẫn một mình líu lo bên cạnh Hoàng đế. Hoàng đế bảo chim: - Từ nay hoa mi luôn ở bên ta để hót cho ta nghe, còn con chi giả ta sẽ đập tan thành trăm mảnh. Hoạ mi vội can: - Xin nhà vua đừng làm như vậy. Chim máy đã làm hết sức của nó, nên giữ nó lại. Còn tôi, tôi không quen sống trong hoàng cung. Xin nhà vua cho phép tôi về rừng, chiều chiều tôi sẽ bay lại đây, đậu trên cành cây, trước cửa sổ này để hót cho nhà vua nghe. Chim sẽ hót lên cuộc đời của những kẻ sung sướng nhưng cuộc đời cũng như cuộc đời của những người đau khổ. Chim sẽ hót lên những điều tốt cũng như những điều xấu người ta chung quanh nhà vua. Tiếng hót của hoạ mi bé nhỏ này sẽ lọt tới những người dân chài nghèo khổ, của những nông dân bần hàn, đến tận những nơi xa hoàng đế và triều đình. Hoạ mi kính trọng tấm lòng nhà vua hơn cả ngai vàng, mặc dầu ngai vàng là biểu hiện thiêng liêng. Chim sẽ đến, sẽ hót, nhưng chỉ xin nhà vua một điều: - Chim muốn xin gì trẫm cũng ban - nhà vua nói và đứng dậy ghi chặt thanh kiếm nạm ngọc quí vào ngực. - Chim chỉ xin bệ hạ một điều là đừng nói cho bất cứ ai biết rằng bệ hạ có một con chim nhỏ đã tâu lên cho bệ hạ biết tất cả mọi điều. Như thế mọi việc sẽ êm đẹp. Nói rồi chim cất cánh bay đi. Lúc ấy triều thần bước vào. Họ yên trí hoàng đế đã băng hà. Nhưng mọi người sửng sốt thấy nhà vua đứng dậy quay về phía họ mà phán rằng: - Chào các ngươi!
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Cô bé tí hon P1[/b] Hans Christian Andersen Ngày xưa có một bà hiếm hoi, mong có một đứa con mà mãi không được. Bà phải tìm đến một mụ phù thủy để nhờ giúp. Bà nói: - Tôi muốn có một đứa con, bà bảo giùm tôi phải làm thế nào. - Ta sẽ giúp - mụ phù thủy trả lời - Hãy cầm hạt lúa này. Nó không giống như lúa mì vẫn mọc ngoài đồng, cũng không giống lúa vẫn cho gà vịt ăn. Đem về gieo vào chậu hoa, một thời gian sau sẽ biết. - Cảm ơn bà - bà hiếm con trả công và chào mụ phù thủy rồi đem hạt lúa về nhà gieo. Chẳng mấy chốc nó mọc thành một cây hoa tuyệt đẹp, giống như hoa uất kim cương, nhưng cánh hoa cuộn lại như một cái nụ. - Hoa đẹp quá!- Bà thốt lên và đặt môi lên hoa. Nhưng bà đang hôn bông hoa thì bỗng có tiếng động mạnh làm hoa bừng nở. Nhìn bông hoa, bà ngạc nhiên thấy ở giữa bông hoa có một cháu bé xinh đẹp ngồi trên nhụy hoa, như ngồi trên chiếc ghế tựa màu xanh. Bé chỉ lớn bằng ngón tay cái nên bà đặt tên cho bé là Bé tí hon. Bà lấy vỏ hạt dẻ để làm cho bé một chiếc nôi rất đẹp, bên trong trải nệm bằng cánh hoa tím, chăn đắp cho bé là một cánh hoa hồng. Ban đêm bé ngủ ở đấy, còn ban ngày bé chơi trên bàn. Bà đặt trên bàn một cái đĩa đựng đầy nước, vành đĩa khoanh một vòng hoa. Cánh hoa nổi trên mặt nước. Có một cánh hoa cánh hoa uất kim cương to dùng làm thuyền. Bé ngồi vào đấy dạo chơi như dạo thuyền, một chiếc lông ngựa dùng làm mái chèo. Bé vừa chèo vừa hát, giọng thật êm ái, dịu dàng. Một đêm, bé tí hon đang ngủ, bỗng một con cóc to tướng vừa béo vừa nhớt trông phát khiếp chui qua ô kính vỡ trên cửa sổ vào phòng và nhảy lên bàn, nơi cô bé tí hon đang ngủ dưới cánh hoa hồng. Nó nghĩ thầm: - Con trai mình được con bé này làm vợ, hẳn là cu cậu sướng mê. Thế là nó chộp lấy cái vỏ hạt dẻ, trong có Bé tí hon đang ngủ, chui qua ô kính vỡ nhảy ra vườn. Trong vườn có một dòng suối nhỏ, hai bờ lầy lội. Đấy là chỗ ở của hai bố con nhà cóc. Khiếp! Cóc con cũng béo phị như bố, trông rất sợ. Hai bố con sao giống nhau đến thế! Trông thấy cô bé xinh đẹp trong vỏ hạt dẻ, cóc con reo lên: cọc, cọc, cọc, kẹc, kẹc, kẹc! Cóc bố bảo: - Khẽ chứ! Không nó thức dậy, nó trốn mất. Chúng ta sẽ đặt nó lên một lá sen to. Nó bé, ở đấy như ở một hòn đảo, không chạy trốn đi đâu được. Chúng ta sẽ làm cho nó một căn nhà ở ngay chỗ bùn lầy này. Giữa dòng suối có nhiều gốc sen, lá xòe to bập bềnh trên mặt nước. Cóc bố bơi ra giữa dòng suối, nơi có tàu lá to nhất, đặt chiếc vỏ hạt dẻ đựng bé Tí hon vào đấy. Sáng hôm sau, thức dậy Bé Tí hon thấy mình đang ở trên tàu lá, bốn chung quanh là nước. Nó sợ quá, òa lên khóc, không có cách vào bờ. Lúc này, bố con nhà cóc đang trang hoàng phòng cưới, căng lên tường những chiếc lá sen xanh, đính lên những bông sen trắng với những nhị sen vàng. Xong rồi hai bố con bơi ra tận giữa suối đón dâu. Cóc già cúi chào bé Tí hon và nói: - Ta giới thiệu với con đây là thằng con trai ta. Chồng của con đấy. Hai con sống trong căn phòng đẹp đẽ giữa chốn bùn lầy này. Cóc con lại: Cọc, cọc, cọc, kẹc, kẹc, kẹc! Hai bố con ngậm tàu lá sen to lôi vào bờ. Bé Tí hon ngồi trên tàu lá khóc sướt mướt. Nó không muốn ở nhà của lão cóc già ghê tởm và không muốn lấy thằng con trai gớm ghiếc của lão. May sao lúc ấy có đàn cá con đang bơi lội dưới suối trông thấy. Chúng nhô lên mặt nước để xem cô bé. Chúng thấy bé xinh quá lại rất buồn vì phải sống với hai con cóc ghê tởm. - Không! Không thể để thế được! Đàn cá bảo nhau và bơi đến dưới tàu lá có Bé Tí hon đang ngồi trên và cắn đứt cuộng sen. Thế là dòng nước cuốn tàu lá đi, đưa cô bé ra xa, rõ xa, bố con nhà cóc không thể bơi tới đó được. Bé Tí hon trôi qua nhiều thành phố. Chim chóc trong bờ bụi hót rằng: - Cô bé xinh quá! Tàu lá đưa cô bé qua nhiều xứ lạ. Một con bướm trắng bay lượn hồi lâu trên đầu cô bé đậu xuống tàu lá. Cô bé sung sướng vì thoát khỏi hai bố con nhà cóc lại được ngắm nhìn phong cảnh đẹp ở những miền đất xa lạ tàu lá trôi qua. Dưới ánh nắng, nước suối lóng lánh như vàng lỏng. Cô bé cởi dây lưng, buộc một đầu vào cánh bướm, một đầu vào tàu lá. Khi bướm bay nó kéo theo cả tàu lá. Bỗng một con bọ dừa xuất hiện, lấy chân quắp cô bé đem đến một cành cây, chiếc lá thì vẫn chao lượn cùng con bướm. Bướm cố gỡ ra khỏi dây buộc mà không sao gỡ được. Khi bọ dừa đem Bé Tí hon lên cây. Bé sợ lắm. Bé sợ cả cho bướm tội nghiệp bị buộc chặt vào tàu lá, nếu không được ai gỡ ra cho thì bướm chết đói mất. Nhưng bọ dừa có nghĩ gì đến chuyện ấy! Nó đặt Bé Tí lên môt chiếc lá to, đem nhụy hoa đến cho Bé ăn và khen Bé đẹp. Nhiều bọ dừa bạn bè nó đến chơi, nhìn chằm chằm Bé Tí hon và nói những câu láo xược. Một ả bọ dừa trẻ kêu lên - Nó chỉ có hai chân thôi các bạn ạ! Một con khác vội thêm: - Nó không có râu chúng mày ạ! Nhiều con khác chế nhạo: - Trông nó xấu như giống người vậy! Thật ra Bé Tí rất xinh. Lúc mới đem Bé Tí về, nó có nghĩ như các bạn nó đâu. Chỉ có các bạn nó dèm pha, nói ra nói vào mãi nên bọ dừa cũng tin là Bé Tí xấu và không thích Bé nữa và đem Bé đặt xuống một cây cúc trắng. Tưởng rằng mình xấu đến mức bọ dừa cũng không ưa, Bé Tí khóc nức nở, buồn phiền. Nhưng thật ra thì Bé rất xinh, thanh tú, dịu dàng, chẳng khác gì một cánh hồng. Bé Tí hon sống một mình suốt mùa hạ trong khu rừng lớn. Bé lấy cọng rơm làm cho mình một cái võng, treo dưới một lá thu mẫu đơn to để tránh mưa. Bé ăn nhuỵ hoa và uống những hạt sương rơi. Bé sống như vậy suốt cả mù hè và cả mùa thu. Nhưng rồi mùa đông đến, mùa đông dài dằng dặc và lạnh giá. Những con chim nhỏ thường hót cho Bé nghe giờ cũng bay đi tránh rét. Cây rụng hết lá, hoa đều tàn, chiếc lá thu mẫu đơn che chỗ nằm cũng héo quắt, chỉ còn lại chiếc cọng vàng khô. Quần áo rách bươm, Bé rét run. Tuyết rơi, mỗi giọt tuyết rơi xuống Bé nặng như hòn đá không chịu nổi. Bé núp mình trong một chiếc lá khô, nhưng chẳng ấm thêm chút nào, vẫn rét run cầm cập. Bé Tí hon bỏ khu rừng đến một ruộng lúa gần đấy. Ruộng lúa vừa mới gặt chỉ còn gốc rạ từ dưới đất giá lạnh tua tủa gai đâm lên. Đi qua đám ruộng, Bé Tí hon cũng thấy vất vả như người đi qua một cánh rừng, nó đi chệnh choạng ngã lên ngã xuống nhiều lần. Bé Tí hon lần được đến cổng nhà mụ chuột đồng - một cái hốc dưới gốc rạ. Chuột đồng sống ở đấy rất thoải mái, lại có đầy lúa và các thức ăn khác. Bé Tí hon vào nhà mụ chuột đồng xin một hạt lúa mạch ăn cho đỡ đói, đã hai hôm nay bé không được ăn gì vào bụng. Chuột đồng bảo: - Tội nghiệp con bé! Vào đây ăn với ta cháu ạ! Thấy Bé Tí hon dễ thương, chuột bảo: - Cháu có muốn ở đây với ta không? Chỉ cần giữ gìn nhà cửa cho sạch và kể chuyện cho ta nghe. Ta thích nhất là nghe kể chuyện. Bé Tí hon làm theo lời chuột và được chuột đối đã tử tế. Một hôm chuột nói: - Sắp có khách sang chơi đấy. Ông bạn láng giềng ta là một người giàu có, nhà cao cửa rộng. Ông thường mặc chiếc áo lông đen nhánh như sa tanh. Cháu mà lấy được ông ta thì may lắm. Nhưng ông ta mù, cháu phải kể chuyện cho ông ta nghe. Rồi ngay hôm ấy, Chuột chũi hàng xóm đến thăm Chuột đồng. Hắn mặc bộ áo lông đen nhánh như sa tanh. Chuột đồng nói là hắn giàu và có học. Nhà hắn rộng gấp hai mươi lần nhà các con Chuột Chũi khác. Nhưng hắn không thích nắng và hoa. Hắn luôn nói xấu ánh nắng và hoa. Chúng bảo Bé Tí hon hát. Bé hát rằng: "Bay đi! Bọ dừa bay đi". Bé hát rất hay. Giọng bé dịu dàng, Chuột chũi nghe thích lắm, nhưng hắn không nói gì. Chuột chũi đã đào một ngách từ nhà hắn ăn thông sang nhà Chuột đồng. Hắn mời Bé Tí hon và bạn bè hắn vào đấy chơi. Trong hang có xác một con chim chết rét. Chuột chũi ngậm một mẩu gỗ mục nát có phát ra ánh sáng đi trước soi đường. Đến gần chỗ xác con chim, chuột chũi lấy mõm húc lên trần cho thủng một lỗ, để cho ánh sáng lọt vào.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]P2- Cô bé tí hon[/b] Nhờ có ánh sáng họ trông thấy con chim én nằm giữa hang, hai cánh gập lại, lông che kín đầu, chân co quắp. Rõ ràng là chim đã chết rét! Thật tôi nghiệp! Bé Tí hon thương chim lắm. Nó đã hót cho Bé nghe suốt cả mùa hè. Nhưng chuột chũi lại lấy chân đẩy chim én và nói: - Nó không hót được nữa! Buồn thay cho số phận những con chim bé nhỏ! Ngoài tiêng kêu chiêm chiếp chim chẳng biết gì nữa, rồi cứ đến mùa đông lại chết rét. Lạy trời đừng bắt các con tôi sau này hoá thành chim. Chuột đồng hưởng ứng: - Bác nói rất đúng! Ngoài tiếng kêu chiêm chiếp chim có biết làm gì đâu! Mùa đông tới là chết đói và chết rét. Bé Tí hon không nói gì; đợi lúc hai con chuột quay lưng đi, nó cúi xuống, vạch lông chim, hôn lên hai mắt nhắm nghiền của chim và nói: - Đúng con chim này đã hót cho mình nghe suốt cả mùa hè vừa qua. Con chim xinh quá, hót thật là hay. Ở nhà Chuột chũi ra về, suốt đêm Bé Tí hon không ngủ được. Bé vùng dậy lấy rơm tết thành một cái chăn đem đắp cho con chim chết rét. Bé còn lấy nhuỵ hoa đem phủ xung quanh thân chim. Bé nói: - Vĩnh biệt chim thân yêu. Cảm ơn chim đã hót cho ta nghe suốt cả mùa hè, khi ánh nắng sưởi ấm chúng ta, cây cối xanh tươi và làm dịu mắt ta. Bé Tí hon lấy tay ghì đầu chim vào ngực mình. Bỗng Bé thấy có vật gì động đậy dưới tay Bé. Đó là trái tim của chim. Con én chỉ mới bị cóng vì rét, giờ đây được sưởi ấm nó tỉnh lại. Mùa thu én thường bay về phương nam tránh rét. Nếu có con nào lọt lại thì nó bị rét cóng, rơi xuống và bị tuyết vùi. Nghĩ vậy, Bé Tí hon thương con chim, lấy thêm nhuỵ hoa rắc lên mình, lấy lá bạc hà Bé thường dùng làm chăn đắp phủ lên đầu chim. Đêm hôm sau Bé Tí hon trở lại thăm chim, thấy chim vẫn sống, nhưng yếu lắm, chỉ mở mắt một tí nhìn Bé rồii lại nhắm nghiền. Bé đứng cạnh chim, cầm một mẩu gỗ mục thay đèn. Một lúc chim cất tiếng nói: - Cảm ơn cô bé lắm! Cảm ơn cô bé thân yêu! Tôi thấy trong người đã nóng lên, đã lại sức. Tôi sẽ có thể bay về nơi ấm nắng cùng với bè bạn. Bé Tí hon đáp: - Chớ! Bên ngoài đầy băng tuyết còn lạnh lắm. Chim cứ ở lại đây, nằm cái giường bé nhỏ này. Tôi sẽ chăm sóc cho chim rất chu đáo. Bé lấy một cánh hoa múc nước đem lại cho chim én. Uống nước xong, chim én kể hco Bé nghe chuyện chim bị thương ở cánh khi bay từ trong một bụi gai ra, vì vậy không kịp bay theo đàn và rơi xuống đất. Chim chỉ nhớ được có thế và không biết sau đấy thế nào, bây giờ đang ở đâu. Chim én ở lại trong hang suốt mùa đông và được Bé Tí hon hết lòng chăm sóc. Nó rất yêu quý Bé. Chuột đồng và Chuôt chũi không biết tý gì. Nếu biết chúng đã đuổi chim đi. Mùa xuân đã đến. Những tia nắng đầu tiên xuất hiện. Chim én hỏi Bé Tí hon có muốn đi theo không. Chim sẽ cõg Bé trên lưng đưa về rừng. Nhưng Bé Tí hon lắc đầu nói: - Tôi không muốn làm như thế. Làm thế là phụ ơn chuột đồng. - Thế thì từ biệt bạn thân yêu. Chim én nói rồi bay vút lên không, giữa bầu trời chan hoà ánh nắng. Bé Tí hon buồn rầu nhìn theo, Bé cũng rất mến chim, chim đi rồi Bé buồn. Suốt ngày Bé phải ở trong nhà, không ra ngoài nắng được ấm được, vì lúa ngoài đồng mọc lên cao. Đối với Bé, thửa ruộng lúa ấy rậm rạp như một cánh rừng. Một hôm Chuột đồng bảo bé: - Mùa hạ chỉ còn thời gian nữa, lễ cưới sáp đến nơi rồi, ông bạn láng giếng đã đem lễ sang dạm hỏi. Cần phải sửa soạn quần áo mới cho cháu. Ta sẽ cho cháu nhiều của hồi môn để cháu đem về nhà chồng. Rồi chuột đồng bảo Bé ngồi quay sợi. Cả bốn con nhện dệt đêm ngày. Chiều nào Chuột chũi cũng sang chơi và nói rằng hễ qua mùa hè, trời bớt nóng, là hắn cưới Bé Tí ngay. Nhưng Bé Tí hon không ưa chuôt chũi. Nó không muốn lấy lão ta, muốn đi khỏi nơi đây. Sáng sáng, lúc bình minh, và chiều chiều lúc mặt trời sắp lặn. Khi gió thổi các bông lúa rạp xuống, hé cho Bé nhìn thấy bầu trời xanh biếc, bé lại mơ ước cuộc sống bên ngoài, mong Chim én bay trở lại. Khi thu sang, quần áo cưới đã chuẩn bị xong, chuột đồng bảo Bé: - Bốn tuần nữa thì làm lễ cưới. Bé Tí hon oà lên khóc, nói rằng không thích chuột chũi. Chuột đồng mắng: - Đừng có õng ẹo! Tao gả mày vào nơi danh giá thế còn gì! Đến ngay Hoàng đế cũng chả cón bộ áo xa tanh đen bóng như nó. Mày phải cảm ơn Trời phật mới đúng chứ! Đến ngày cưới, Chuột chũi tới để đem Bé Tí hon đi. Bé phải xuống dưới hang với chuột chũi, xa ánh nắng, vì chuột chũi ghét ánh sáng. ở nhà chuột đồng ít ra Bé cũng còn có thể đứng ở cửa hang ngắm mặt trời mọc. - Mặt trời nóng ấm ơi! Vĩnh biệt! Bé vừa nói vừa giơ tay lên. Rồi Bé tí hon rời nhà chuột đồng. - Vĩnh biệt! Vĩnh biệt! - Bé vòng tay ôm một bông hoa nhỏ - Nếu hoa có thấy chim én cho ta gửi lời chào. - Chiêm chiếp! Chiêm chiếp! Vừa lúc ấy, Bé Tí hon nghe có tiếng chim hót trên đầu. Bé nhìn lên. Đúng là chim én! Chim én nhìn thấy Bé mừng quá! Bé kể cho chim nghe nỗi buồn phải lấy chuột chũi, phải xuống ở hang sâu, phải xa mặt trời. Chim én nói: - Mùa đông sắp đến rồi, tôi sắp quay về xứ nóng. Bé có muốn cùng đi với tôi thì trèo lên lưng tôi, lấy dây lưng buộc người vào mình tôi. Chúng ta trốn xa chuột chũi và chỗ ở ghê tởm của nó. Chúng ta sẽ đi thật xa, qua núi non đến những xứ nóng, ở đấy có ánh nắng chan hoà, suốt năm lúc nào cũng như mùa hạ, hoa lá cỏ cây xanh tươi đẹp đẽ. Trốn đi với tôi, Bé Tí hon thân yêu, người đã cứu sống tôi lúc tôi đã nằm cứng đơ dưới hang sâu nhà chuột chũi. - Vậy thì chúng ta đi thôi! Bé Tí hon đáp và trèo lên lưng chim én, lấy thắt lưng buộc mình vào lông chim. Chim én vút lên không trung, bay qua hết rừng này đến biển nọ, bay qua những ngọn núi tuyết phủ quanh năm. Bé Tí rét run chúi vào bộ lông dày của chim én, chỉ ló đầu ra nhìn tất cả những cảnh huy hoàng dọc đường. Rồi đôi bạn tới vùng xứ nóng. ở đây nắng chói lọi, trời lồng lộng cao. Trên cành cây đung đưa những chùm nho mọng quả đen đẹp, những cam chanh chíu chít. Có những đứa trẻ xinh đẹp chơi đùa trên đường cái. Chim én vẫn bay xa mãi, phong cảnh mỗi lúc một đẹp hơn. Cuối cùng chim én đưa Bé Tí hon đến một nơi, dưới bóng cây xanh, gần một dải hồ nước xanh biếc, sừng sững mọt toà lâu đài cổ bằng cẩm thạch trắng. Nho và câyu trường xuân leo kín các cột. Chim én làm tổ trên một cái cột ấy. Chim nói với Bé Tí hon: - Nhà tôi đấy! Bé có thấy cỏ mọc ở dưới không. Tôi sẽ đặt bé xuống giữa đám cỏ, sống ở đấy, Bé sẽ thấy sung sướng. - Vâng! - Bé Tí hon vỗ tay trả lời. Ở đấy có một cái cột bằng cẩm thạch trắng vỡ làm ba mảnh, chung quanh mọc đầy hoa trắng rất đẹp. Chim én đặt Bé Tí hon xuống đấy trên một chiếc lá to. Bé bỗng ngạc nhiên khi thấy ở đây có một chàng trai bé nhỏ trong như thuỷ tinh. Chàng không to lớn gì hơn Bé Tí hon. Trong mỗi bông hoa đều có một người bé nhỏ như thế. Chàng trai trong bông hoa cúc trắng là vua của họ. - Bé Tí hon thì thầm với chim én - Trời! anh chàng đẹp trai quá! Hoàng tử tí hon rất sợ chim én, vì đối với chàng bé nhỏ và mảnh khảnh thì chim én quả là một con chim khổng lồ. Vừa nhìn thấy Bé Tí hon, Hoàng tử mê say ngay. Chưa bao giờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như thế! Chàng nhấc chiếc mũ miện đang đội đặt lên đầu cô bé Tí hon ngỏ ý muốn lấy bé. Lấy chàng, Bé sẽ trở thành nữ chúa của các loài hoa. Thật là đẹp đôi, chẳng như thằng Cóc con và lão chuột chũi! Bé Tí hon bằng lòng. Từ mỗi bông hoa bước ra một nam, một nữ, quần áo sang trọng. Đôi nào cũng xinh đẹp, nhưg xinh đẹp nhất vẫn là đôi vợ chồng mới cưới. Người ta lắp cánh vào cho Bé Tí hon; Bé có thể bay từ bông hoa này sang bông hoa khác. Khắp nơi đều vui mừng. Trên ngọn cột đá cẩm thạch, chim én ráng sức hót mừng đôi tân hôn, tuy rằng chim rất buồn và nhớ cô bé. Hoàng tử bảo Bé: - Cái tên Bé Tí hon xấu lắm mà em thì lại rất đẹp. Từ nay tên em sẽ là là Tiểu Ngọc. Tạm biệt! Tạm biệt! Chim én hót chào để rời xứ nóng, trở về phương Bắc. Con chim én ấy làm tổ ở cạnh cửa sổ nhà người kể chuyện này. Nó dùng tiếng nói "chiêm chiếp!" mà kể chuyện trên đây cho ông ta nghe và nhờ đó chúng ta biết thêm được một chuyện.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Cây lúa mạch[/b] Hans Christian Andersen Nếu bạn đi qua cánh đồng lúa mạch sau cơn bão bạn sẽ thấy lúa đen như thể là bị cháy. Tôi sẽ kể cho bạn nguyên nhân lúa bị đen, qua câu chuyện một chú chim sẻ, chú ta đã nghe từ lời kể của một ông liễu già mọc ở gần cánh đồng ngô và lúa mạch. Ông liễu này cao và rất được coi trọng, nhưng vào thời điểm ấy ông đã già cỗi, nhăn nheo. Thân cây bị chẻ làm đôi, cỏ cây mâm xôi mọc len vào kẽ nứt; ông liễu ngã ra phía trước và các cành lá của ông xõa xuống mặt đất như một mái tóc xanh dai. Có nhiều cây ngô tốt sống trên cánh đồng, quây cây lúa mạch. Những bắp ngô được nuôi dưỡng tốt và bắp càng mập bao nhiêu thì lại vít cây nằm ngả xuống bấy nhiêu. Lúa mạch ta vốn kiêu ngạo nên cứ ngẩng thẳng và vươn cao đầu lên. Nó nghĩ thầm: "Mình có khối bắp vàng như cây ngô. Mình còn đẹp hơn hẳn hắn ta nhiều. Những bông hoa của mình đẹp như những nụ táo vậy...". Thế rồi, Lúa mạch nói: - Này bác liễu già, bác đã từng thấy cái cây nào đẹp như tôi chưa hả? Ông liễu gật đầu. Lúa mạch la lên: - Cái lão thật dớ dẩn. Lão ta già quá rồi. Cỏ mọc cả vào trong óc lão rồi. Và chợt một cơn bão ập đến. Đám hoa trên cánh đồng xếp cánh lại và cúi gập những ngọn đầu xinh xinh. Lúa mạch ta vẫn kiêu ngạo vươn cao cổ lên. Những bông hoa bảo nó: - Hãy cúi đầu xuống như chúng tôi đi. Lúa mạch đáp: - Không thể được tôi sẽ chẳng chịu cúi đầu. Ông liễu già bảo: - Hãy xếp những cánh hoa và xếp gọn lá vào. Đừng có nhìn vào các tia chớp kẻo lại nhìn thấy thiên đàng sớm. Ngay kể cả con người cũng mù nếu họ nhìn vào tia chớp. Nếu bọn ta vươn đầu lên thì cái gì sẽ xảy ra với đám cỏ dại chúng mình? Lúa mạch kêu lên khinh bỉ: - Cỏ dại! Quả thật! Tôi chẳng sợ nhìn lên trời. Trong giây phút ấy cả thế giới như chìm trong bão tố và tia chớp lửa. Ngay sau đó, cơn bão đã đi qua, rồi sau một trận mưa mọi vật mới ngọt ngào làm sao. Những bông hoa dại ngẩng lên hít thở khí trời, những cây ngô lại đung đưa theo chiều gió. Chỉ có cây lúa mạch nằm xoài trên đất héo tàn, cháy đen. Ông liễu già lắc đầu. Một giọt nước to rơi xuống từ đám lá liễu như thể ông liễu già đang khóc. Những chú chim sẻ líu lo: - Tại sao ông lại khóc, ông không thấy sự tươi mát của hoa và lá sao? Ông liễu già kể lại sự việc xảy ra với cây lúa mạch kiêu ngạo và tôi nghe được câu chuyện này từ các chú chim sẻ vào cái buổi tối mà tôi gợi chuyện với chúng.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Giăng bị thịt[/b] Hans Christian Andersen Ở giữa vùng thôn quê, có một cái lâu đài cổ, trong lâu đài có một ông hoàng già và hai cậu con trai. Các cậu này thông thái đến nỗi người khác chỉ cần hiểu biết bằng một nửa các cậu cũng đã khá uyên bác rồi. Họ đều muốn hỏi con gái nhà vua và họ có thể làm việc ấy vì công chúa đã tuyên bố sẽ lấy người nào có tài ứng phó trước mặt nàng. Cả hai cậu dành ra tám ngày để chuẩn bị. Công chúa chỉ ra hạn có từng ấy ngày, nhưng như thế cũng thừa đủ đối với các cậu: các cậu tài cao học rộng nên sau tám ngày đã chuẩn bị xong xuôi. Một cậu học thuộc lòng cả quyển tự vị la tinh và tất cả các số báo hằng ngày ra trong thành phố ba năm gần đây, đọc xuôi hay đọc ngược cũng được. Cậu kia học thuộc làu bộ luật và tất cả sự hiểu biết của một vị quan tòa; cậu cho rằng mình có đủ tài để ngồi bàn việc nước. Cậu lại còn khéo tay biết cả thêu thùa nữa. Cả hai đều tự phụ rằng mình sẽ lấy được công chúa. Cha các cậu cho mỗi người một con ngựa; cậu thuộc tự điển và báo chí được con ngựa đen; cậu thuộc luật và biết thêu thùa được con ngựa trắng như sữa. Họ còn dùng dầu hạnh nhân bôi nhờn mép để có thể nói được lâu. Khi các cậu lên ngựa, quân hầu đầy tớ đến trực sẵn cả ở sân nhà dưới. Lúc đó cậu em giai thứ ba đến. Đúng là ba anh em, nhưng cậu thứ ba quá dốt nên chẳng ai đếm xỉa đến. Người ta chỉ gọi cậu là Giăng bị thịt mà thôi. Cậu hỏi các anh: - Các anh đi đâu mà diện quần áo ngày hội thế? - Đi lên kinh đô đàm đạo với công chúa đây. Mày không nghe quân lính đánh trống loan báo khắp nước à? Rồi họ kể lại cho cậu nghe đầu đuôi câu chuyện. Giăng bị thịt bảo: - Này, tôi sẽ đi với các anh. Nhưng các anh cậu thì cười ồ lên và phi ngựa đi thẳng. Giăng bị thịt kêu lên: - Thưa cha, xin cha cũng cho con một con ngựa. Con muốn lấy vợ lắm rồi. Nếu công chúa ưng lấy con thì lấy, nếu nàng không lấy thì con cũng cứ lấy nàng. - Không! Chẳng có ngựa cho mày đâu. Mày không nên đợi, nói không nên lời, có đâu được lịch sự giỏi giang như các anh mày. - Không có ngựa à? Được rồi, con sẽ cưỡi con dê của con, cần gì! Cậu nhảy phóc lên con dê đực của cậu, lấy gót chân thúc cho nó mấy cái vào hông rồi thẳng đường cái quan ra đi. Hấp ! Hấp ! Cậu phi nhanh phải biết! - Có em đây! - Cậu gọi to và có tiếng vang đáp lại. Hai người anh lặng thinh rong ruổi phía trước trên mình ngựa, họ chẳng nói chẳng rằng và còn mãi nghĩ đến những câu văn hoa cần phải nghiên cứu cho kỹ để đem ra thi thố với công chúa. Giăng bị thịt gọi to: - Hấp ! Hấp ! Có em đây. Em nhặt được vật này dọc đường đây này. Nói rồi cậu giơ ra một con quạ chết. - Bị thịt đáng thương ơi! Em định dùng cái của ấy làm gì thế? - Tặng công chúa. - À ! Hay đấy! Họ vừa nói vừa cười rồi đi thẳng. - Hấp ! Hấp ! Hấp ! Có em đây ! Các anh hãy xem đây: chẳng mấy khi nhặt được cái của này trên đường đâu. Hai người quay lại, nhìn xem cái gì và nói: - Bị thịt ! Chiếc guốc cùn ấy mày cũng định đem tặng công chúa chắc? Bị thịt trả lời: - Vâng, đúng thế đấy ạ. Hai người lại cười rộ và phi ngựa bỏ đi trước rõ xa. Một lát sau bị thịt lại gọi to: - Hấp ! hấp ! hấp ! Có em đây ! Quả thật mỗi lúc một phấn chấn, các anh ạ. Cái này thì tuyệt ! - Lại nhặt được gì nữa thế hử? - Một thứ vô song, phen này công chúa hẳn phải vừa ý. - Eo ơi ! Bùn bốc dưới cống lên đấy à? - Vâng , đó là thứ bùn mịn nhất đấy ạ. Nói rồi Bị thịt bốc bùn bỏ đầy túi. Các ông anh cho ngựa phi nước đại, đến cổng thành trước Giăng có đến 1 tiếng đồng hồ. Người ta phát số thứ tự cho những kẻ đến cầu hôn và họ đứng sắp hàng sau, chen nhau đến nỗi không nhúc nhích nổi cánh tay. Làm thế là cần thiết, nếu không họ sẽ đánh nhau vì người nọ tranh nhau đứng trước người kia. Nhân dân đứng xúm quanh cung điện, nhìn qua cửa sổ để xem công chúa kén chồng. Thương thay cho các anh chàng! Vừa vào đến nơi đã tịt mít không nói được một tiếng. Công chúa truyền: - Đến lượt người khác. Đến lượt một người anh của Bị Thịt, người đã học thuộc lòng quyển tự vị, nhưng chỉ mới đứng xếp hàng thôi, cu cậu đã quên ráo cả. Lúc bước trên sàn kêu kèn kẹt và nhìn vào trần lát toàn bằng gương, cậu thấy như là đi lộn ngược, đầu xuống đất, chân lên trời. Bên cửa sổ lại còn có ba viên lục sự và một pháp quan ngồi ghi chép các câu trả lời, ghi đến đâu lập tức được đăng lên tờ báo bán ở đầu phố, hai xu một số. Thế thì làm gì mà chẳng cuống cuồng ! Cũng cần nói thêm rằng lò sưởi đốt nhiều than đến nỗi trông cứ đỏ rực lên. Anh chàng đến cầu hôn nói : - Ở đây nóng quá! Công chúa đáp: - Là vì hôm nay vua cha cho quay gà. Chết cha ! Thật là một vấn đề bất ngờ đối với cu cậu. Tịt ! Cu cậu đứng đực ra chẳng nói được lấy một tiếng nào, vì cu cậu còn đang mải sáng tác một câu thật dí dỏm. Thế là tịt ! Tịt ! Công chúa lại phán: - Lại một tên nữa không ra gì. Đến lượt người khác! Cu cậu phải chuồn, nhường chỗ cho người em. Anh chàng này lại nói: - Ở đây nóng khiếp quá! - Phải, tại hôm nay chúng tôi quay gà ấy mà. - A ! A ! Thế nào kia? Anh ta nói xong, các thầy ký lục vội vàng vào sổ : “A ! A ! Thế nào kia ?” Công chúa phán: - Lại một tên nữa không ra gì ! Đến lượt người khác ! Lúc ấy đến lượt Giăng bị thịt. Cậu dắt cả con dê vào phòng và kêu to: - Nóng gì mà nóng khiếp thế này. Công chúa nói: - Là vì chúng tôi đang luộc gà. Bị thịt đáp ngay: - Ồ ! Thế thì còn gì bằng! Cho luộc nhờ con quạ này được không? - Được lắm chứ! Công chúa nói; nhưng anh có cái gì đựng không? Ta không có nồi cũng chả có xoong đâu. - Có đây, nồi đây! Nói rồi Bị thịt chìa chiếc guốc cùn ra và đặt con quạ vào trong. Công chúa bảo: - Thế thì được bữa ăn ngon đấy; nhưng lấy đâu ra nước sốt? - Trong túi đây – Giăng nói – mà còn có thừa để bán lại nữa kia đấy! Nói rồi cu cậu móc trong túi ra một ít bùn. Công chúa nói: - Được đấy! Anh trả lời được đấy, biết ăn nói đấy. Anh sẽ là chồng ta. Nhưng anh có biết rằng từng câu, từng chữ chúng ta đang nói và đã nói đều được ghi bằng tốc ký và sẽ đăng trên báo không? Anh có trông thấy ba viên lục sự và vị pháp quan già ngồi gần cửa sổ kia không? Lão già ấy gớm lắm, đúng là một con diều hâu! Dọa thế, công chúa tưởng Giăng bị thịt sợ; vừa lúc ấy ba viên lục sự cũng phùng mang trợn mắt, hất đổ cả lọ mực xuống đất. Giăng nói: - Các ngài này ấy à? Được, ta sẽ biếu viên pháp quan phần lớn nhất. Nói rồi Giăng bị thịt lộn trái túi áo lấy bùn ném vào đầy mặt viên pháp quan. Công chúa reo lên: - Hoan hô ! Hoan hô ! Đến ta cũng không nghĩ ra, nhưng bây giờ thì ta học được cách xử sự ấy rồi. Giăng bị thịt được làm vua, vừa được vợ, vừa được cả mũ miện lẫn ngai vàng. Câu chuyện này tôi đọc được trong một tờ báo do viên pháp quan viết, nhưng truyện này liệu có đáng cho chúng ta tin hay không nhỉ ?
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Giăng bị thịt[/b] Hans Christian Andersen Ở giữa vùng thôn quê, có một cái lâu đài cổ, trong lâu đài có một ông hoàng già và hai cậu con trai. Các cậu này thông thái đến nỗi người khác chỉ cần hiểu biết bằng một nửa các cậu cũng đã khá uyên bác rồi. Họ đều muốn hỏi con gái nhà vua và họ có thể làm việc ấy vì công chúa đã tuyên bố sẽ lấy người nào có tài ứng phó trước mặt nàng. Cả hai cậu dành ra tám ngày để chuẩn bị. Công chúa chỉ ra hạn có từng ấy ngày, nhưng như thế cũng thừa đủ đối với các cậu: các cậu tài cao học rộng nên sau tám ngày đã chuẩn bị xong xuôi. Một cậu học thuộc lòng cả quyển tự vị la tinh và tất cả các số báo hằng ngày ra trong thành phố ba năm gần đây, đọc xuôi hay đọc ngược cũng được. Cậu kia học thuộc làu bộ luật và tất cả sự hiểu biết của một vị quan tòa; cậu cho rằng mình có đủ tài để ngồi bàn việc nước. Cậu lại còn khéo tay biết cả thêu thùa nữa. Cả hai đều tự phụ rằng mình sẽ lấy được công chúa. Cha các cậu cho mỗi người một con ngựa; cậu thuộc tự điển và báo chí được con ngựa đen; cậu thuộc luật và biết thêu thùa được con ngựa trắng như sữa. Họ còn dùng dầu hạnh nhân bôi nhờn mép để có thể nói được lâu. Khi các cậu lên ngựa, quân hầu đầy tớ đến trực sẵn cả ở sân nhà dưới. Lúc đó cậu em giai thứ ba đến. Đúng là ba anh em, nhưng cậu thứ ba quá dốt nên chẳng ai đếm xỉa đến. Người ta chỉ gọi cậu là Giăng bị thịt mà thôi. Cậu hỏi các anh: - Các anh đi đâu mà diện quần áo ngày hội thế? - Đi lên kinh đô đàm đạo với công chúa đây. Mày không nghe quân lính đánh trống loan báo khắp nước à? Rồi họ kể lại cho cậu nghe đầu đuôi câu chuyện. Giăng bị thịt bảo: - Này, tôi sẽ đi với các anh. Nhưng các anh cậu thì cười ồ lên và phi ngựa đi thẳng. Giăng bị thịt kêu lên: - Thưa cha, xin cha cũng cho con một con ngựa. Con muốn lấy vợ lắm rồi. Nếu công chúa ưng lấy con thì lấy, nếu nàng không lấy thì con cũng cứ lấy nàng. - Không! Chẳng có ngựa cho mày đâu. Mày không nên đợi, nói không nên lời, có đâu được lịch sự giỏi giang như các anh mày. - Không có ngựa à? Được rồi, con sẽ cưỡi con dê của con, cần gì! Cậu nhảy phóc lên con dê đực của cậu, lấy gót chân thúc cho nó mấy cái vào hông rồi thẳng đường cái quan ra đi. Hấp ! Hấp ! Cậu phi nhanh phải biết! - Có em đây! - Cậu gọi to và có tiếng vang đáp lại. Hai người anh lặng thinh rong ruổi phía trước trên mình ngựa, họ chẳng nói chẳng rằng và còn mãi nghĩ đến những câu văn hoa cần phải nghiên cứu cho kỹ để đem ra thi thố với công chúa. Giăng bị thịt gọi to: - Hấp ! Hấp ! Có em đây. Em nhặt được vật này dọc đường đây này. Nói rồi cậu giơ ra một con quạ chết. - Bị thịt đáng thương ơi! Em định dùng cái của ấy làm gì thế? - Tặng công chúa. - À ! Hay đấy! Họ vừa nói vừa cười rồi đi thẳng. - Hấp ! Hấp ! Hấp ! Có em đây ! Các anh hãy xem đây: chẳng mấy khi nhặt được cái của này trên đường đâu. Hai người quay lại, nhìn xem cái gì và nói: - Bị thịt ! Chiếc guốc cùn ấy mày cũng định đem tặng công chúa chắc? Bị thịt trả lời: - Vâng, đúng thế đấy ạ. Hai người lại cười rộ và phi ngựa bỏ đi trước rõ xa. Một lát sau bị thịt lại gọi to: - Hấp ! hấp ! hấp ! Có em đây ! Quả thật mỗi lúc một phấn chấn, các anh ạ. Cái này thì tuyệt ! - Lại nhặt được gì nữa thế hử? - Một thứ vô song, phen này công chúa hẳn phải vừa ý. - Eo ơi ! Bùn bốc dưới cống lên đấy à? - Vâng , đó là thứ bùn mịn nhất đấy ạ. Nói rồi Bị thịt bốc bùn bỏ đầy túi. Các ông anh cho ngựa phi nước đại, đến cổng thành trước Giăng có đến 1 tiếng đồng hồ. Người ta phát số thứ tự cho những kẻ đến cầu hôn và họ đứng sắp hàng sau, chen nhau đến nỗi không nhúc nhích nổi cánh tay. Làm thế là cần thiết, nếu không họ sẽ đánh nhau vì người nọ tranh nhau đứng trước người kia. Nhân dân đứng xúm quanh cung điện, nhìn qua cửa sổ để xem công chúa kén chồng. Thương thay cho các anh chàng! Vừa vào đến nơi đã tịt mít không nói được một tiếng. Công chúa truyền: - Đến lượt người khác. Đến lượt một người anh của Bị Thịt, người đã học thuộc lòng quyển tự vị, nhưng chỉ mới đứng xếp hàng thôi, cu cậu đã quên ráo cả. Lúc bước trên sàn kêu kèn kẹt và nhìn vào trần lát toàn bằng gương, cậu thấy như là đi lộn ngược, đầu xuống đất, chân lên trời. Bên cửa sổ lại còn có ba viên lục sự và một pháp quan ngồi ghi chép các câu trả lời, ghi đến đâu lập tức được đăng lên tờ báo bán ở đầu phố, hai xu một số. Thế thì làm gì mà chẳng cuống cuồng ! Cũng cần nói thêm rằng lò sưởi đốt nhiều than đến nỗi trông cứ đỏ rực lên. Anh chàng đến cầu hôn nói : - Ở đây nóng quá! Công chúa đáp: - Là vì hôm nay vua cha cho quay gà. Chết cha ! Thật là một vấn đề bất ngờ đối với cu cậu. Tịt ! Cu cậu đứng đực ra chẳng nói được lấy một tiếng nào, vì cu cậu còn đang mải sáng tác một câu thật dí dỏm. Thế là tịt ! Tịt ! Công chúa lại phán: - Lại một tên nữa không ra gì. Đến lượt người khác! Cu cậu phải chuồn, nhường chỗ cho người em. Anh chàng này lại nói: - Ở đây nóng khiếp quá! - Phải, tại hôm nay chúng tôi quay gà ấy mà. - A ! A ! Thế nào kia? Anh ta nói xong, các thầy ký lục vội vàng vào sổ : “A ! A ! Thế nào kia ?” Công chúa phán: - Lại một tên nữa không ra gì ! Đến lượt người khác ! Lúc ấy đến lượt Giăng bị thịt. Cậu dắt cả con dê vào phòng và kêu to: - Nóng gì mà nóng khiếp thế này. Công chúa nói: - Là vì chúng tôi đang luộc gà. Bị thịt đáp ngay: - Ồ ! Thế thì còn gì bằng! Cho luộc nhờ con quạ này được không? - Được lắm chứ! Công chúa nói; nhưng anh có cái gì đựng không? Ta không có nồi cũng chả có xoong đâu. - Có đây, nồi đây! Nói rồi Bị thịt chìa chiếc guốc cùn ra và đặt con quạ vào trong. Công chúa bảo: - Thế thì được bữa ăn ngon đấy; nhưng lấy đâu ra nước sốt? - Trong túi đây – Giăng nói – mà còn có thừa để bán lại nữa kia đấy! Nói rồi cu cậu móc trong túi ra một ít bùn. Công chúa nói: - Được đấy! Anh trả lời được đấy, biết ăn nói đấy. Anh sẽ là chồng ta. Nhưng anh có biết rằng từng câu, từng chữ chúng ta đang nói và đã nói đều được ghi bằng tốc ký và sẽ đăng trên báo không? Anh có trông thấy ba viên lục sự và vị pháp quan già ngồi gần cửa sổ kia không? Lão già ấy gớm lắm, đúng là một con diều hâu! Dọa thế, công chúa tưởng Giăng bị thịt sợ; vừa lúc ấy ba viên lục sự cũng phùng mang trợn mắt, hất đổ cả lọ mực xuống đất. Giăng nói: - Các ngài này ấy à? Được, ta sẽ biếu viên pháp quan phần lớn nhất. Nói rồi Giăng bị thịt lộn trái túi áo lấy bùn ném vào đầy mặt viên pháp quan. Công chúa reo lên: - Hoan hô ! Hoan hô ! Đến ta cũng không nghĩ ra, nhưng bây giờ thì ta học được cách xử sự ấy rồi. Giăng bị thịt được làm vua, vừa được vợ, vừa được cả mũ miện lẫn ngai vàng. Câu chuyện này tôi đọc được trong một tờ báo do viên pháp quan viết, nhưng truyện này liệu có đáng cho chúng ta tin hay không nhỉ ?
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Cây thông[/b] Hans Christian Andersen Một cây thông non xinh tươi mọc trong rừng. Thông mọc chỗ có nắng và quang đãng. Khắp chung quanh có nhiều cây thông khác lớn hơn. Thông non ta cũng muốn lớn bằng những cây ấy. Thông non rất ghét các trẻ con trong làng vừa bi ba bi bô vừa đi qua đi lại để hái quả dâu, rồi lúc trở về, tay xách giỏ dâu, ngồi gần gốc thông mà khen : “Ồ ! Cây thông non xinh quá”. Nó không thích người ta gọi nó là “thông non”. Năm sau nó lớn thêm một đốt, mọc thêm được một cành, năm sau lại thêm một lớp cành nữa; các bạn hẳn cũng đã biết là như thế chỉ cần đếm các lớp cành là cũng đủ nhận ra tuổi một cây thông. Cây thông non thở dài: - Ôi ! Giá ta cũng to lớn bằng những cây khác nhỉ ! Lúc ấy ta sẽ vươn nổi các nhánh rất xa ra xung quanh và từ trên ngọn ta có thể ngắm nhìn khắp đồng quê. Chim chóc sẽ đến làm tổ trên các cành của ta và khi gió thổi ta cũng sẽ nghiêng mình một cách đường bệ như các cây khác. Bởi vậy thông non của chúng ta không thích bất cứ một thứ gì, từ nắng ấm cho đến chim chóc, thậm chí cái đám mây hồng sáng chiều bay qua trên ngọn thông. Đông đến, bốn bề toàn là tuyết trắng phau lấp lánh. Một con thỏ rừng chạy ngang qua, nhảy vọt qua ngọn thông non: thông ta lấy làm nhục lắm. Nhưng qua hai mùa đông nữa thông non của chúng ta lớn đến mức lũ thỏ đành phải chạy vòng quanh. Nó lớn lên, lớn mãi, trở nên cao và già. Trên đời này, còn gì đẹp cho bằng, thông non vẫn đinh ninh như thế. Hàng năm cứ đến mùa thu các bác tiều phu lại vào đốn ít cây to nhất. Cây thông non bây giờ đã khá to; nó suy nghĩ về số phận những cây to và đẹp đang đổ xuống đất rầm rầm. Người ta chặt cành và bóc vỏ đi, cây thành ra dài và thon, không nhận ra được nữa. Sau đó, người ta đặt cây lên xe ngựa, chở ra khỏi rừng. Cây đi đâu thế nhỉ ? Số phận cây rồi sẽ ra sao đây? Đến mùa xuân, khi cò và chim nhạn bay trở về, thông non trước kia của ta hỏi : - Các bạn có biết người ta mang những cây to đi đâu không? Các bạn có gặp các cậu ấy không ? Chim nhạn chẳng hề biết, nhưng một con cò có vẻ đứng đắn, gật gù đáp: - Có lẽ tôi biết đấy! Tôi đã gặp rất nhiều tàu bè mới tinh từ Ai Cập về. Cột buồm những tàu ấy rất lộng lẫy, và tôi ngửi thấy thơm thơm, hình như gỗ thông thì phải. - Chao ôi! Ước gì tôi đủ sức lớn để cũng được bồng bềnh trên mặt biển. Biển ấy như thế nào nhỉ? - Nói ra thì dài dòng lắm. Cò đáp rồi bay đi. Những tia mặt trời bảo thông : - Cậu hãy vui sướng với cái tuổi trẻ của cậu. Hãy tận hưởng chất nhựa tươi tắn và tuổi thanh xuân của cậu! Gió hôn thông và sương trang điểm cho thông những hạt lóng lánh như ngọc, nhưng thông chẳng xúc động mảy may trước sự chăm sóc ấy. Gần đến lễ Noel, người ta đến chặt nhiều cây con, bé và non hơn cây thông của chúng ta, lúc này chỉ muốn rời bỏ cánh rừng. Các cây non ấy cành lá lưa thưa nên người ta để nguyên lên xe ngựa chở ra khỏi rừng. Thông ta tự hỏi: - Chúng đi đâu thế nhỉ ? Chúng chẳng lớn gì hơn ta, có một cây còn bé hơn ta nữa kia. Sao người ta lại giữ cả cành và đem chúng đi đâu thế ? Đàn chim sẻ chiêm chiếp: - Chúng tớ biết ! Chúng tớ biết ! Chúng tớ đã nhìn qua cửa kính các nhà trong thành phố. Chúng tớ biết người ta đem cây non đi đâu. Người ta mang chúng đến những nơi hội hè, tưng bừng không thể tưởng tượng được. Nhìn qua cửa kính, chúng tớ thấy người ta trồng chúng vào giữa một gian phòng ấm áp, trang điểm cho chúng bằng những vật đẹp nhất, nào táo, nào bánh ngọt, các thứ đồ chơi và hàng mấy trăm ngọn nến. - Sao nữa ? – Thông vừa hỏi vừa rung lên, rung cả cành lẫn lá. Sao nữa? Sau rồi thế nào? - À, chúng tớ chỉ biết có đến thế thôi! Thật là huy hoàng! Thông lẩm bẩm: - Số mình không được hưởng cái tương lai sáng lạn ấy hay sao? Còn thích hơn là đi biển nhiều. Ôi ! Giá bây giờ lại là lễ Noel nhỉ? Nay mình đã lớn chẳng kém gì những cây được người ta đem đi năm ngoái. Ôi! Giá mình được lên xe, được trồng trong căn phòng ấm áp, giữa những vật huy hoàng ấy! Nhưng sau đó sẽ ra sao? Hẳn là sẽ có gì nữa, nếu không thì người ta trang điểm cho cây như thế để làm gì? Phải, nhất định sẽ có cái gì tuyệt hơn. Không gì khổ bằng chờ với đợi! Nóng ruột quá đi mất. Gió hiu hiu và ánh nắng bảo thông: “Hãy vui thú với chúng ta. Hãy bằng lòng với tuổi thanh xuân mơn mởn, với bầu trời khoáng đãng!” Thông chẳng vui lòng chút nào. Nó lớn lên, lớn lên mãi, mùa hè cho chí mùa đông, cành lá lúc nào cũng đẹp một màu xanh thẫm, ai trông cũng khen: “Cây thông đẹp quá!” và trước lễ Noel mấy ngày người ta chặt nó trước tiên. Lưỡi rìu chặt đứt cây đến tận lõi, cây thốt ra một tiếng thở dài rồi đổ xuống. Nó đau đớn đến nỗi không còn mơ tưởng đến một chút hạnh phúc nào nữa. Nó nhớ tiếc chỗ nó mọc, nơi nó đã lớn lên. Nó biết rằng từ nay trở đi chẳng bao giờ nó còn được gặp lại các bạn cũ thân mến của nó, các bụi cây, bụi hoa mọc xung quanh nó, và biết đâu đấy? Có thể là ngay đến một con chím nó cũng không được gặp lại. Đúng, nó ra đi mà lòng không vui. Cây thông của chúng ta bừng tỉnh trong sân nhà, nơi nguời ta, lôi nó ra khỏi xe cùng với các bạn khác của nó. Nó nghe thấy một người lên tiếng: “Cây này đẹp đấy! Tớ đang cần một cây như thế này!” Rồi có hai người hầu mặc đồng phục đến khiêng nó vào một gian phòng rộng rãi đẹp đẽ. Khắp xung quanh có những bức chân dung trên tường và trên chiếc lò sưởi lớn bằng sứ có hai lọ độc bình Trung Quốc chạm trổ đầy những rồng và hoa thếp vàng. Lại còn có những cái ghế bành tuyệt đẹp, những ghế trường kỷ bọc lụa, những chiếc bàn lớn chứa đầy sách và đồ chơi quý giá, đáng hàng mấy trăm mấy nghìn đồng tiền vàng. Cấy thông được đặt vào một cái thùng đầy cát, nhưng người ta không thể nào biết rằng đấy là một cái thùng gỗ vì xung quanh có rèm xanh phủ kín. Thông ta không nén nổi cảm động. Rồi sao nữa đây? Các cô gái và bạn đầy tớ bắt tay vào trang điểm cho thông. Họ treo những cái bao dài nhỏ bằng giấy màu xanh đựng đầy kẹo lên cành thông. Những quả hạt dẻ và táo vàng trĩu xuống như mọc từ cành thông ra. Rồi sau họ cắm những cây nến trắng xanh đỏ, đặt những con búp bê nom như người thật lên các cành; tất cả những thứ đó thông ta chưa được nhìn thấy bao giờ. Chót vót trên ngọn thông họ cắm một ngôi sao lớn bằng giấy tráng kim tuyệt đẹp. Xung quanh thông mọi người đều reo lên: - Đến tối tất cả sẽ sáng rực lên phải biết! Thông ta tự nhủ: - Ồ! Sao cho chóng đến tối nhỉ? Đèn nến thắp lên thì phải biết! Rồi còn gì nữa nhỉ? Giá các cây trong rừng đến được đây mà ngắm ta! Có lẽ lũ chim cũng sẽ đến ngắm ta qua cửa kính đấy. Liệu đông qua, hạ tới, ta có được trồng ở đây mãi với tất cả trang sức này không? Thế là nó đã đoán ra được việc sẽ xảy ra sau này, nhưng vì quá sốt ruột, nó cảm thấy các lá đều nhức nhối, đối với một cây thông nhức lá cũng khó chịu như chúng ta nhức đầu. Sau cùng, người ta thắp nến lên. Sáng quá, huy hoàng quá! Sung sướng, thông ta rùng mình đến tận các cành nhỏ, đến nỗi một ngọn nến bắt lửa vào một cành cháy khét lèn lẹt. - Trời ! – các cô gái kêu lên và lao vào dập lửa. Thông ta không dám rùng mình nữa, chỉ sợ hỏng mất đồ trang sức. Nó long lanh sáng rực lên. Cửa ra vào bỗng mở toang ra và một lũ trẻ con ùa vào dường như muốn xô đổ cây thông. Người lớn điềm tĩnh theo sau. Lũ trẻ con dừng lại, lặng đi ngắm nghía cây thông, nhưng sau một lát chúng lại vui cười ầm ĩ và bắt đầu nhảy vòng tròn xung quanh gốc cây. Những đồ chơi dần dần bị lấy tuốt cả. Thông ta tự hỏi : “Chúng làm gì thế này? Sắp có chuyện gì chả biết được?” Nến đã tàn và khi cháy gần hết người ta bèn tắt đi. Lúc ấy trẻ con được phép phá cây Noel, chúng ùa vào làm các cành thông gãy răng rắc. Nếu không được chôn chặt ắt là thông ta đã đổ nhào. Sau đó lũ trẻ con nhảy múa với những đồ chơi xinh đẹp của chúng, chẳng đoái hoài gì đến thông nữa. Chỉ có mỗi bà vú già đến nhìn ngó các cành, nhưng chỉ để tìm xem có cái kẹo hoặc quả táo nào còn sót lại chăng. - Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! - Bọn trẻ con vừa reo vừa kéo một người thấp béo đến ngồi dưới gốc thông. Người ấy nói: - Thế là chúng mình ngồi giữa cành lá xanh tươi và chắc thông cũng thích. Nhưng chỉ kể một chuyện thôi nhé! Các cháu có thích nghe chuyện Ivet Aval hay chuyện Klumpê Đumpê ngã thang gác nhưng vẫn trèo được lên ngôi vua và được lấy công chúa không? Đứa thì kêu: - Ivet Avet. Đứa thì kêu : - Klumpê Đumpê. Chúng làm ồn lên. Riêng cây thông vẫn đứng im và tự hỏi: - Họ không đếm xỉa gì đến mình nữa à? Không cần đến mình nữa chắc? Ông già kể chuyện Klumpê Đumpê, bọn trẻ con vừa vỗ tay vừa la: “Nữa ! Nữa !” Chúng còn muốn nghe cả chuyện Ivet Avet, nhưng chỉ được nghe có mỗi một chuyện Klumpê Đumpê. Thông ta trầm lặng suy nghĩ, chim chóc trong rừng chưa bao giờ kể cho nó nghe một chuyện nào giống như chuyện Klumpê Đumpê bị ngã thang gác, nhưng vẫn lấy được công chúa, Thông nghĩ thầm: - Ừ phải! Ở đời này cũng có thế thật. Chuyện ông cụ kể chắc là không ngoa, có vẻ thật lắm. Biết đâu đấy? Có thể mình cũng sẽ rơi xuống cầu thang, để rồi sẽ lấy được một nàng công chúa. Nó khấp khởi mừng thầm và tưởng tượng đến ngày hôm sau trên người nó sẽ lại mắc đầy nến, đồ chơi, giấy tráng kim và hoa quả. Nó tự nhủ: - Đến mai mình sẽ không run nữa. Mình sẽ tràn trề hạnh phúc. Đến mai mình sẽ lại được nghe chuyện Klumpê Đumpê và có lẽ cả chuyện Ivet Avet nữa. Đêm hôm ấy, nó lặng lẽ mơ màng. Sáng ra, bọn hầu gái bước vào, thông ta hí hửng: - A! Lại bắt đầu mở hội đây. Nhưng không! Người ta khiêng nó ra khỏi phòng để đưa lên một cái kho trên gác, quẳng vào một xó tối như bưng. Thông nghĩ thầm: - Thế này là thế nào? Đến chốn này thân mình sẽ ra sao nhỉ? Lần này mình sẽ được nghe kể chuyện gì nhỉ? Rồi nó dựa vào vách mà mơ màng. Ngày tháng trôi qua, chẳng có ma nào trèo lên nhà kho và nếu có người lên đến nơi cũng chỉ là để đem vứt vào đấy những chiếc hòm lớn. Thông ta đành phải tin là mình đã bị quên hoàn toàn. Nó tự nhủ: - Ngoài kia, đông đã đến nơi rồi. Đất đã cứng ra và phủ đầy tuyết. Giờ thì người ta không đem trồng mình được nữa rồi. Tất nhiên là mình phải ở đây đến tận mùa xuân. Tất cả đều tuyệt mỹ và loài người cũng tốt thôi. Giá cái kho gớm ghiếc này đỡ tối một chút thì hay quá! Chẳng có lấy một chú thỏ nào! Trong rừng khi tuyết rơi và đàn thỏ chạy ngang qua thật là vui… thế mà hồi đó mình lại đâm cáu khi chúng nhảy qua ngọn mình. Chốn này quả là hoang vu đáng sợ. - Chít ! Chít - Một con chuột nhắt vừa kêu vừa nhảy nhót đến gần thông, rồi một con nữa theo sau, cả hai đều đánh hơi rồi trèo lên cành thông. Chúng xuýt xoa: - Rét đâu mà khiếp thế. Nếu không rét thì ở đây cũng sướng đấy chứ, phải chăng bác thông già? Thông đáp: - Ta đâu đến nỗi già, còn có khối kẻ già hơn ta. - Thế bác ở đâu đến đây? Bác biết gì nào? Hãy tả những danh lam thắng cảnh trên trái đất cho chúng tôi nghe. Bác đã đi đến những nơi đó chưa? Bác đã được đến cái chạn đựng đầy phó mát trên các ngăn, có đùi lợn sấy lủng lẳng treo trên nóc, nơi có thể khiêu vũ trên những cây nến làm bằng mỡ, nơi mà khi vào thì gầy, khi ra thì béo nung núc không? - Không, ta không biết nơi ấy. Nhưng ta biết cánh rừng có mặt trời lấp lánh và chim muông ca hát. Thông kể cho chuột nhắt nghe cuộc đời niên thiếu của mình. Chưa bao giờ chúng từng được nghe một chuyện như vậy, chúng dỏng cả tai lên, miệng nói: - Bác biết đến là nhiều chuyện. Sao bác sướng thế? - Ta mà sướng ư? Nói rồi thông ngẫm nghĩ về câu chuyện mình vừa kể. Phải, suy cho cùng, hồi ấy quả có sướng thật. Rồi thông kể đến chuyện đêm Noel, thân nó đầy những bánh ngọt và nến. Chuột nhắt trầm trồ: - Trời, bác thông già, sao bác sướng thế? Thông nói: - Ta đã già đâu kia chứ! Người ta mới đem ta ở rừng về từ mùa đông thôi mà. Ta vừa mới lớn lên mà họ đã tống ta vào một cái thùng. Rõ thật là khó chịu. Chuột nói: - Bác kể chuyện hay quá đi mất! Đêm sau, hai con chuột nhắt rủ thêm bốn con nữa đến để nghe thông kể chuyện. Thông nói: - Phải, hồi ấy quả có sướng thật, nhưng rồi lại cũng sẽ có những ngày như vậy. Klumpê Đumpê ngã thang gác mà còn lấy được một nàng công chúa. Rất có thể ta cũng sẽ vớ được một nàng công chúa. Nói rồi thông tưởng nhớ đến một cây phong xinh xắn trong rừng mà nó tưởng tượng là một nàng công chúa thật. Lũ chuột nhắt hỏi: - Klumpê Đumpê là gì thế? Thông ta kể lại câu chuyện không sót một chữ. Lũ chuột nhắt thích quá, tưởng như muốn nhảy lên đến ngọn thông. Đêm sau, chuột nhắt kéo đến đông hơn và đến chủ nhật lại có thêm cả hai gã chuột chù, nhưng hai gã tuyên bố rằng câu chuyện chả có gì lý thú, làm cho lũ chuột nhắt buồn xỉu. Vì thế câu chuyện đối với chúng, từ đó trở đi, cũng kém phần lý thú. Chuột chù hỏi: - Bác chỉ biết có mỗi chuyện ấy thôi à? - Ừ, chỉ có thế thôi – thông trả lời – đó là chính câu chuyện ta được nghe kể trong buổi tối sung sướng nhất của đời ta, nhưng lúc đó, ta không biết là sung sướng đến mức nào. - Chuyện của bác thật chán ngấy! Thế bác không biết ở đâu có mỡ miếng và nến làm bằng mỡ à? Bác không biết chuyện nào nói về cái chạn đựng thức ăn à? - Không ! Thông nói. - Thế thì xin chào bác ! Nói rồi chuột chù kéo nhau về. Lũ chuột nhắt cũng rút lui nốt. Thông ta lẩm bẩm: - Dẫu sao nhìn lũ chuột nhắt ngồi quây tròn quanh mình nghe kể chuyện cũng thấy thú vị. Nhưng cảnh đó cũng chẳng còn. Chỉ khi nào người ta lôi mình ra khỏi nơi này thì hạnh phúc mới trở lại. Bao giờ đến lúc ấy nhỉ? Một buổi sáng đẹp trời, người ta đến dọn dẹp kho thóc, khuân hòm đi và kéo cây thông ra khỏi xó nhà. Nó bị quăng xuống đất hơi mạnh, nhưng liền đó có một người vác nó đem qua một cầu thang sáng sủa. - Đời lại vun vút lên rồi ! Thông nghĩ thầm khi được mang ra sân và cảm thấy có gió mát và ánh nắng đầu xuân. Thông mải nhìn các vật quanh mình đến nỗi quên cả bản thân mình. Liền với cái sân có mảnh vườn đầy hoa nở. Hoa hồng tươi thơm ngát rủ trên bờ rào, bồ đề đang ra hoa và chim nhạn vừa bay vừa hót : kia – rơ – vi – rơ – vít. - Giờ đây ta lại sắp được sống! - Thông thì thầm và vươn cành ra. Than ôi ! Cành đã khô vàng. Người ta quẳng thông vào một xó giữa đám cây tầm ma và cây gai. Ngôi sao bằng giấy vẫn còn đính trên ngọn và lấp lánh ánh nắng. Trong sân có vài đứa trẻ con hôm lễ Noel đã nhảy múa quanh cây thông và thấy thông hôm ấy rất đẹp. Đứa bé nhất chạy lại cầm lấy ngôi sao vàng óng, reo lên: - Ồ, xem này ! Ngôi sao hãy còn đính trên cây thông Noel già xấu xí này! Nói rồi, nó dận giày lên cành thông gãy răng rắc. Thông ta nhìn những đóa hoa đẹp và khu vườn xanh tươi mát mẻ rồi lại nhìn cái thân mình. Nó muốn quay trở lại xó tối trong kho thóc. Nó nghĩ đến thời thanh xuân của nó trong rừng, nghĩ đến cái đêm Noel vui sướng và nghĩ đến những con chuột nhắt thích nghe kể chuyện Klumpê Đumpê. - Thế là hết ! Ai bảo lúc sướng lại chả biết đường mà sướng? Một anh đầy tớ đến chặt cây ra từng mảnh, được một bó củi to đem đun bếp. Người ta nghe thấy những tiếng thở dài và những tiếng kêu thất thanh. Bọn trẻ con chạy lại đứng trước ngọn lửa mà reo: “Phì ! phì !” nhưng những tiếng phì phì của cây thông là những tiếng thở dài thực sự. Nó nghĩ đến những ngày hè trong rừng, những đêm đông ngoài bầu trời khoáng đãng, những sao lấp lánh trên trời. Nó nghĩ đến đêm Noel và đến Klumpê Đumpê, câu chuyện độc nhất đã học được và kể lại được. Thế rồi, chẳng còn sót lại một tí gì của cây thông non nữa. Lũ trẻ con lại chạy ra sân, đứa bé nhất còn đeo trên ngực ngôi sao vàng mà thông đã được đeo trong cái tối sung sướng nhất của đời nó. Cái tối hôm ấy không còn nữa và câu chuyện của chúng ta cũng hết như tất cả các câu chuyện trên đời này.
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Hoàng Đăng Vịnh check gia
Trả lời 16 năm trước
[b]Con quỷ sứ của ông hàng tạp hóa[/b] Hans Christian Andersen Ngày xưa có một anh chàng sinh viên nghèo, thật thà, ngay thẳng, sống trong một căn gác xép, chẳng có lấy một tí gì. Cũng trong nhà ấy lại có một ông bán hàng tạp hóa lương thiện và là chủ nhà. Bạn của ông là một con quỷ sứ. Đêm Noel ông cho nó một bát bột ngào sữa và một mẩu bơ to tướng. Con quỷ sứ ở ngay trong cửa hàng, nơi nó biết đến là lắm chuyện. Một buổi tối kia, chàng sinh viên đi cửa sau vào mua nến và phó mát. Chàng không có ai giúp việc và vẫn phải tự đi mua lấy các thứ. Người ta giao hàng và chàng trả tiền. Vợ chồng nhà hàng gật đầu chào chàng. Chàng sinh viên đáp lễ và dừng lại đọc tờ giấy gói miếng phó mát của mình. Đó là một tờ giấy xé ở một cuốn sách cũ, lẽ ra không nên xé vì cuốn sách ấy là một tập thơ. Ông chủ hàng bảo : - Cuốn sách ấy có nguyên vẹn đâu. Có một bà lão đem đổi cho tôi lấy một nắm càphê đấy mà. Đưa tôi tám siling, tôi sẽ đưa nốt chỗ còn lại cho anh. - Không. Có đổi lấy miếng phó mát thì đổi. Tôi ăn bánh mì với bơ thôi cũng đủ. Xé một cuốn sách như vậy thật đáng tiếc. Bác là một con người khôn ngoan và thực tế, nhưng đối với thơ ca, bác cũng chỉ hiểu biết đại khái như cái sọt này mà thôi ! Nói như thế cũng khá vô lễ, nhất là đối với cái sọt, nhưng ông chủ hàng vẫn cười, anh sinh viên cũng cười… Họ đùa nhau, nhưng con quỷ sứ thấy có người nói như vậy tức lắm, vì ông chủ hiệu tạp hóa bán loại bơ ngon nhất, lại là chủ của nó. Đến đêm, lúc mọi người đi ngủ cả, trừ chàng sinh viên, con quỷ sứ bèn lẻn vào buồng bà chủ lấy hàm răng giả của bà. Cái hàm răng ấy có phép kỳ diệu. Chỉ cần đặt nó lên bất kỳ vật gì trong buồng, lập tức vật ấy sẽ nói được và sẽ phát ra những tư tưởng và cảm xúc của nó, không kém gì bà chủ, có điều là không bao giờ nói cùng với bà ta cả; thế cũng may, nếu không thì đâm ra cả hai cùng nói trong mồm. Con quỷ sứ đặt hàm răng vào trong sọt đựng báo cũ và hỏi sọt : - Có đúng là mày không biết thơ là gì phải không ? - Biết lắm chứ - sọt nói – thơ là cái ta vẫn thấy ở phía dưới các tờ báo và thường được người ta cắt ra ấy mà. Tôi tưởng rằng tôi còn chứa nhiều thơ hơn một anh sinh viên ấy chứ, nhưng ví với ông chủ thì tôi còn kém xa. Con quỷ đặt hàm răng giả lên cái cối xay cà phê, rồi đặt lên hũ đựng bơ và ngăn kéo đựng tiền. Chúng đều đồng ý kiến với cái sọt. Phải tôn trọng ý kiến của đa số. Quỷ sứ nói : - Thôi đến lượt anh sinh viên! Nó trèo lên thang gác nhà bếp, lên đến tận căn gác xép tồi tàn của chàng sinh viên. Bên trong vẫn còn sáng. Con quỷ sứ nhòm qua lỗ khóa thấy chàng sinh viên đang ngồi đọc những trang sách nát trong cuốn sách của ông chủ hàng. Nhưng sao căn phòng lại sáng đến thế ! Cuốn sách phát ra một tia sáng tỏa ra như một gốc cây, vươn lên rất cao và xõa cành trên đầu người đọc sách. Tấm lá nào cũng tốt tươi, mỗi đóa hoa là một cái đầu thiếu nữ xinh tươi với những cặp mắt huyền đen láy hoặc những đôi mắt xanh cực kỳ trong sáng. Mỗi quả là một vì sao lấp lánh và trong phòng vang lên tiếng đàn hát mê hồn. Quỷ sứ chưa từng hình dung nổi những cảnh tuyệt vời như thế bao giờ. Nó kiễng chân, đứng đực ra đấy, mắt nhìn chằm chằm, cho đến khi ánh sáng trong phòng vụt tắt đi. Sau lúc chàng sinh viên đi ngủ, quỷ sứ vẫn không nhúc nhích vì tiếng hát vẫn ngân lên êm ái và quyến rũ ru cho chàng sinh viên ngủ. Quỷ sứ lầm bầm : - Thế mới tuyệt vời chứ! Mình không ngờ đấy. Không biết có nên đến ở với anh sinh viên này không nhỉ? Nó suy nghĩ hồi lâu rồi tự nhủ : - Nhưng hắn lấy đâu ra bột ngào sữa cho mình ăn? Nghĩ thế nó quyết định trở về ở với ông chủ hàng tạp hóa. Nó về vừa đúng lúc vì cái sọt dùng hàm răng giả nói quá nhiều nên đã gần mòn hết. Quỷ sứ mang hàm răng giả về trả cho bà chủ. Nhưng từ đó trở đi, cả cửa hàng, từ ngăn kéo đựng tiền cho đến hũ bơ đều tán thành ý kiến của sọt, đều kính nể và hoàn toàn tin tưởng ở sọt. Thậm chí đến ông chủ hàng đọc bài “Tin tức văn nghệ và sân khấu” đăng trong tờ báo buổi chiều cũng cứ tưởng là bài của sọt. Nhưng quỷ sứ còn không ngồi yên được lấy một lúc. Khoa học và đạo lý thu lượm được trong hàng tạp hóa đối với nó là không đủ. Đèn vừa thắp trong kho thóc thì dường như có những tia sáng như những sợi dây thừng kéo nó lên trên gác. Nó chạy vội lên nhìn qua lỗ khóa và lúc đó một cảm giác mạnh mẽ nổi lên trong người nó, giống như người đi bể gặp phong ba. Chẳng hiểu sao nó khóc òa lên và cảm thấy nguôi nguôi qua hàng lệ. Giá được ngồi bên chàng sinh viên dưới gốc cây lớn thì thú vị biết bao! Than ôi! Không được. Nó đành nhìn qua lỗ khóa vậy. Gió bắt đầu thổi qua kẽ hở trên mái nhà, nhưng nó vẫn đứng đấy, đứng trên ván gác giá lạnh. Dẫu có rét đến mấy nó cũng chẳng bao giờ cảm thấy gì trước khi ánh sáng trong phòng tắt đi và tiếng ca nhạc im hẳn. Chỉ đến lúc ấy nó mới cảm thấy cóng, nó run rẩy trở về cửa hàng; dưới ấy mới dễ chịu và ấm áp, ấy là chưa nói đến món bột ngào sữa đêm Noel và mẫu bơ to tướng. Ông hàng tạp hóa còn giữ được nó là ở chỗ đó. Một đêm kia, tiếng ồn ào dữ dội làm quỷ sứ bừng tỉnh. Nhìn qua cửa sổ nó thấy thiên hạ đang kêu cứu. Bác tuần canh đang báo động. Cháy sáng rực cả phố. Cháy cửa hàng tạp hóa hay cháy nhà bên cạnh? Thật là khủng khiếp! Bà hàng kinh hoảng đến nỗi tháo ngay hoa tai bỏ vào túi, nghĩ rằng mình cũng đã chạy được chút đỉnh. Ông hàng chạy cái két bạc và chị người ở chạy cái khăn vuông bằng lụa của chị. Ai cũng muốn chạy vật gì quý giá nhất. Quỷ sứ nhảy lên. Đến tận buồng anh sinh viên; anh ta đang lặng lẽ đứng trước cửa sổ xem đám cháy phát ra từ nhà bên cạnh. Quỷ sứ vớ lấy quyển sách kỳ diệu đang để trên bàn, nhét vào cái mũ trùm đầu màu đỏ của nó và giữ khư khư bằng cả hai tay: thế là của quý nhất nhà vẫn còn nguyên chưa việc gì ! Nó chui qua ống khói, chuồn lên mái nhà. Nó ngồi đấy, ngồi trong ánh lửa của căn nhà bên cạnh đang cháy, hai tay giữ cái mũ màu đỏ của nó, trong đựng của quý. Giờ đây nó đã biết tâm hồn nó phải ngả về đâu và con người nó thuộc về ai. Nhưng khi đám cháy tắt thì lý trí lại thắng thế. Nó tuyên bố: - Ta sẽ sống san sẻ với cả hai người. Không thể bỏ đứt ông chủ hàng tạp hóa được, vì món bột ngào sữa quả thật là ngon quá. Điều đó cũng rất “con người” vậy. Chúng ta cũng thế thôi, chúng ta cũng sẽ quay trở về với ông chủ hàng tạp hóa chỉ vì món bột ngào sữa.