Khớp với tim liên quan gì đến nhau nhỉ

Tại sao người ta lại nói khớp đớp tim, tại sau đau khớp lại dẫn đến thấp tim
Phòng chăm sóc khách hàng
Phòng chăm sóc khách hàng
Trả lời 16 năm trước
"Khớp đớp tim" là từ chuyên môn chỉ bệnh thấp khớp để nặng sẽ chạy vào tim gây nên các bệnh về tim như hở van tim, suy tim... Đây là thông tin mình sưu tầm được, hy vọng giúp được bạn Mitral Valve Prolapse (sự lệch vị trí của vành tim Mitral) Tim hoạt động rất đêù đặn và chính xác. Trung bình trái tim vận chuyển khoảng 379 lit máu quanh cơ thể con người. Máu chỉ tuần hoàn theo 1 chiều và 4 van tim Tricuspid, Pulmonary, Mitral và Aortic, có nhiệm vụ mở và đóng theo mỗi nhịp tim. Bốn van này ngăn không cho máu chảy ngược lại và hệ tuần hoàn được hoạt động bình thường. Có hai chứng bệnh thưòng gây nguy hiểm tới các van tim là Regurgitation và Stenosis. Reguritation (chứng hở van tim), là hiện tượng van tim không đóng lại được kín, khiến máu có thể chảy ngược lại. Lâu dần điều này sẽ khiến tim lớn hơn và và khó vận chuyển máu khắp cơ thể. Stenosis (chứng hẹp van tim) là truờng hợp khi lá của van tim không mở được rộng hơn hoặc quá hẹp khi máu lưu thôngqua van tim. Do hai lá van tim này bị dày lên và có thể dính vào nhau, nên tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu. Tuy nhiên cả Stenosis, hoac là Regurgitation thường là biến chứng từ một căn bệnh sốt từ thuở nhỏ và do chữa trị khong kip thời. Cả hai đều không phải là bệnh di truyền. MITRAL VALVE : Lượng máu chưá nhiều chất oxygen từ lá phổi, sẽ được đưa vào phần trên bên trái của timvà sẽ do Mitral Valve đưa xuống phần dưới bên trái tim. Mitral Valve có nhiệm vụ chuyển máu xuống dưới hoặc ngăn không cho máu từ phía dưới chảy ngược lên trên. Mitral Valve là 1 trong những van tim dễ bị ảnh hưởng nhất. Có thể là do bẩm sinh, hai lá của van tim có hình dạng không bình thường. Một nguyên nhân khác là do chất Calcium đóng dày quanh van tim. Chất Calcium rất nguy hiểm cho cơ thể, là nguyên nhân gây ra bệnh thấp khớp, bệnh vôi xương. Chất Calcium theo thời gian sẽ bị đọng vào Mitral Valve nếu bệnh nhân bị thấp khớp. Bệnh thường gặp nhiều trong nữ giới. Đặc biệt, những người cao gầy, ngón tay dài, có xương dài và khớp xương dẻo, khung ngực nhỏ hẹp. thường mắc chứng bệnh Mitral Valve. TRIỆU CHỨNG: Chứng bệnh Mitral Valve, theo thống kê chiếm khoảng 5% trong dân số. Hầu hết các bác sĩ và bệnh nhân đều có thể lầm lẫn trong khi chẩn đoán về chứng bệnh Mitral Valve. Bởi vì những triệu chứng của Mitral Valve thường không có liên quan đến tim mạch. Nhưng mặc dù có nhiều triệu chứng khác nhau, tất cả các bệnh nhân đều có hai điểm giống nhau: ngộpthở , và xỉu bất ngờ. Lúc đầu bệnh nhân thường không thấy có dấu hiệu nguy hiểm gì, nhưng càng ngày căn bệnh sẽ ảnh hưởng tới hệ thần kinh. Những ảnh hưởng tới hệ thần kinh do Mitral Valve gây ra đều liên quan tới nội tạng : Nhịp đập của tim, tốc độ tuần hoàn máu, mồ hôi, độ ấm của cơ thể, và các chức năng bài tiết khác, trong đó quan trọng nhất là chức năng điều khiển phản xạ tự nhiên của hệ thần kinh. Tuy các bệnh nhân MitralValve mỗi người có những triệu chứng khác nhau, nhưng hầu hết những phản xạ tự nhiên (autonomic nervous system) của cơ thể đều bị xáo trộn , không bình thường và tăng hơn người thường nhiều lần. Chỉ một vấn đề buồn phiền rất nhỏ, cũng có thể khiến người bệnh cảm thấy như một vấn đề to tát xảy ra. Những phản xạ tự nhiên đó bị xáo trộn là do trong cơ thể bệnh nhân tiết qúa nhiều hormones, gọi là Catecholamines. Chất này làm con người hay thay đôỉ tính tình thất thường. Trong mỗi con người ngoài năm giác quan, còn có hệ thống thần kinh đặc biệt đó là cảm giác, hay còn gọi là linh cảm (Sympathetic Nervous System). Khi hệ thống thần kinh này bị rối loạn, nhất là bị gây ra bởi uất ức, không vưà lòng, thì bệnh nhân cảm thấy ngực sẽ nóng lên, và tim đập nhanh hơn với những nhịp đập rất mạnh. Do không đủ oxygen trong máu, chứng ngộp thở, hoặc những hơi thở rất ngắn xuất hiện và bệnh nhân bị toát mồ hôi lạnh. Do hệ thống thần kinh cảm giác bi rối loạn, bệnh nhân thường có cảm giác đau rát trong ngực, cảm thấy tối tăm, cô đơn, và hay nghĩ tới chết chóc, hoặc luôn mang cảm giác lâng lâng khi bước trên mặt đất. Nếu bệnh nhân không hiểu tại sao mình lại có triệu chứng như vậy, thì những triệu chứng đó sẽ khiến họ rất sợ hãi và sẽ làm cho căn bênh ngày càng trở nên nguy hiểm . Bởi vì chinh'' sự sợ hãi về 1 điều mà minh không biết nguyên nhân khiến cơ thể tiết ra Stress hormon nhiều hơn, và làm cho hệ thống thần kinh cảm giác bị rối loạn trầm trọng hơn . Hệ thống phản xạ tự nhiênbị rối loạn, sẽ khiến cơ thể gặp những hậu qủa nghiêm trọng như : -Hay bị ho, thậm chí có thể ho ra máu. -Nhức đầu, cảm thấy rơi vào khoảng không. -Suy nghĩ không tập trung. -Mất ngủ và hay thức giấc. -Khó thở, tim đập mạnh, tim đập không đều và hay đau ngực. -Hay bị sợ hãi và lo âu. -Mồ hôi lạnh, lạnh tay và lạnh bàn chân, hay bị tê đầu ngón chân và taỵ -Hay bi sưng chân và mắt cá. -Hay bị tiêu chảy, thường xuyên đau bụng. -Hay bị dị ứng tới tất cả cac loại thuốc và caffein. -Đôi khi giọng nói sẽ bị đục khàn và to hơn. Hệ thống thần kinh cảm giác khi bị rối loạn thường làm cho cơ thể thay đổi theo, như : -Cơ thể đang rất hoạt bát, bỗng dưng mệt và khó thở . -Rất nhạy cảm với các hoá chất lạ. -Chất estrogen điều tiết thất thường khiến chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ cũng bị trồi sụt bất thường. -Chất Magnesium trong cơ thể sẽ bị thiếu hụt trầm trọng. CHỮA TRỊ Hiện nay với những kỹ thuật hiện đại, việc chữa trị các chứng bệnh về tim mạch ngày càng có nhiều tiến bộ. Bac sĩ có thể nghe nhịp đập của tim bằng stethoscope để phân biệt những âm thanh khác nhau, chụp hình Xray, để thấy van tim bị biến dạng tới mức nào. Bác sĩ sẽ dùng Doppler Ultrasound để theo dõi máu chảy qua từng van tim và đoán biết mức độ tuần máu ở mỗi van tim. Họ cũng sử dụng biện pháp Echocardiography, để phóng đại và nhìn rõ độ dày , mỏng của van tim, thành tim, hình dạng của từng van tim và dùng Doppler Echocardiography để chẩn đoán sự thu hẹp (Stenosis) hoặc là máu chảy ngược (Regurgitation). Bệnh nhân sẽ được uống thuốc giảm đau, giảm bớt những triệu chứng thất thường, giảm sự co giãn quá mức của tim, giảm chất Calcium, giảm máu bị tắc nghẽn, phòng ngừa những cơn sốt và những nhiễm trùng theo đường họng. Tuy nhiên thuốc men không phải là biện pháp duy nhất chữa trị chứng bệnh nàỵ Cần phải nhớ rằng, răng có liên quan rất lớn tới những bộ phận tim mạch, vì vậy bệnh nhân cần nói với nha sĩ về chứng bệnh tim của mình, để được dùng trụ sinh. Tuỳ theo mức độ của từng bệnh nhân, các bác sĩ co thể dùng biện pháp Transcatheter Intervention, là phương pháp làm lớn hơn những van tim bị nhỏ hẹp. Những ống mềm như bong bóng, rất nhỏ đuọc ghép vào giữa Van tim của bệnh nhân và sẽ co bóp để giúp lưu thông máu . Ngoài ra là biện pháp Surgery, để làm lớn hơn những van tim bị nhỏ hẹp, và lấy ra những chất Calcium bị nghẽn, hoặc thay thế những van tim nhân tạo. Hiện nay các bác sĩ cũng đang nghiên cứu và thử nghiệm việc cấy gien mới cho tế bào phát triển. (TMD)