Giúp mình kể tên các thi,văn sĩ quê Quảng Nam có tác phẩm trước 1975. Cám ơn?

tu
tu
Trả lời 16 năm trước
BẠN CÓ THỂ THAM KHẢO MỘT VÀI CÁI TÊN VÀ ĐÔI NÉT VỀ HỌ SAU ĐÂY : 1. Năm vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa được xếp theo thứ tự như sau: 1.1. Ông Phạm Tuấn : Tiến sĩ đệ nhị giáp, người lớn tuổi nhất, cử nhân xuất thân, đương nhiệm chức Ðốc Học tỉnh Quảng Nam, quê quán làng Xuân Ðài, tổng Phú Khương Thượng (GòNổi, PhùKỳ) phủ Ðiện Bàn, trú quán làng Bến Ðề, tổng Phú Khương Thượng, phủ Ðiện Bàn. Theo tài liệu cuả ông Quốc Minh đăng trên báo Người Việt số 2721, ngày 15-5-93, thì ông Phạm Tuấn đã một lần đỗ tiến sĩ, khoa thi hội Kỹ Sửu(1889), năm Thành Thái nguyên niên, nhưng vì biến cố ở kinh đô Huế lúc bấy giờ nên kỳ thi ấ'y không được công bố và xem như hủy bỏ. Như thế nghiã là ông Phạm Tuấn 2 lần đổ tiến sĩ 2 khoa thi hội cách nhau 10 năm, 1889-1898. 1.2. Ông Phạm Liệu: Tiến sĩ đệ nhị giáp, người nhỏ tuổi nhất, quê quán làng Trừng Giang, tổng Phú Khương Thượng (Gò Nổi,Phù Kỳ), phủ Ðiện Bàn. 1.3. Ông Phan Quang: Tiến sĩ đệ tam giáp,quê quán làng Bàng Lãnh, tổng Phú Khương Thượng (Gò-Nổi Phù Kỳ), phủ Ðiện Bàn, trú quán làng Phước Sơn, huyện Quế Sơn. 1.4. Ông Dương Hiển Tiến: Phó bảng, quê quán làng Cẩm Lậu, tổng An Nhơn, phủ Ðiện Bàn. 1.5. Ông Ngô Lý: Phó bảng, quê quán làng Cẩm Sa, tổng Phú Triên, phủ Ðiện Bàn. 2. Về xuất xứ và liên hệ gia đình, môn đồ. Năm vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa đều là người quê quán phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng- Nam. Ba vị tân tiến sĩ đồng khoa không những quê quán cùng đồng tỉnh Quảng Nam, cùng đồng phủ Ðiện Bàn, mà còn đồng tổng Phú Khương Thượng (Gò Nổi, Phù Kỳ). Hai vả tân tiến sĩ đồng hương và đồng khoa Phạm Liệu và Phạm Quang là anh em con cô con cậu, thuộc tộc Phan, làng Bàng Lãnh, tổng Phú Khương Thượng, phủ Ðiện Bàn, và là con cháu nội ngoại xa gần, đồng thời là môn đồ của cụ Tú Thất Khoa (7 khoa tú tài) Phan Thế Huân,và cụ Tú Ngũ Khoa (5 khoa tú tài) Phan thế Tiên húy Nguyên, trú quán làng Cổ Tháp, tổng Mậu Hoà, Phủ Duy Xuyên. 3. Về văn bài. Theo tài liệu do ban giám khảo trường thi Hội khoa Mậu Tuấ't (1898) lưu chiếu tại Quốc Tử Giám của triều đình nhà Nguyễn thì: Văn bài cuả tiến sĩ Phạm Tuấn xuất sắc về thâm thúy, trong sáng, chững chạc, đáng bậc mô phạm gương mẫu. Văn bài của Tiến Sĩ Phạm Liệu xuất sắc về bay bướm, âm điệu, phong nhà, đ'ang bậc tuổi trẻ tài hoạ 4. Về thơ tặng Ðương thời ở Quảng Nam, cụ Ðào Tấn, hiệu Tô Giang, tiểu hiệu Mai Tăng, ququê quán xã Vĩnh- Thạnh, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, tiến sĩ xuất thân khoa Ðinh Mão (1867) là tác giả các vở tuồng hát bộ: Hộ Sanh Ðường, Khuê Các Anh Hùng, Trầm Hương Các, Ngũ Hổ Bình Tây, Tống Ðịch Thanh...nổi tiếng mà ngày nay thường được trình diễn, làm Tổng Ðốc, có tặng mỗi ông tân tiến sĩ một bài thơ mà các cổ nho ngày nay còn truyền tụng: 4.1._Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Tuấn: Vận hội tuần hoàn ngũ thập niên, Thử ban tương kế xuất danh hiền. Trúc-ba nhân khứ, Hà-ba tại, Nhụy bản du truyền Giáp Ất tiên. Tạm dịch: Năm mươi năm hội tuần hoàn, Tôi hiền liên tiếp nảy vang đất này. Cụ Hà đó, cụ Trúc đi,(*) Bút tiên Giáp Ất tên ghi bảng vàng. (*) Trúc ba chỉ cụ Trúc Ðường Phạm Phú Thứ đã từ trần; Hà ba chỉ cụ Hà Ðình Nguyễn Thuật đang còn sống lúc bấy giờ. 4.2._ Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Liệu: Chiết quế nhơn tùng nguyệt diện lai, Ðình bôi vị vấn thiếu niên tài. Khán hoa mã quá song kiều lộ, Thùy vị nam nhi đệ nhất mai. Tạm dịch: Bẻ về cành quế Hằng Nga, Chén nồng xin hỏi trẻ mà tài cao(**) Xem hoa cưởỉ ngựa qua cầu, Cành nam ai kẻ trổ đầu hoa mai. (**) Ông Phạm Liệu lúc thi đổ tiến sĩ còn trẻ tuổi. 4.3._ Bài thơ tặng tiến sĩ Phan Quang : Giang sơn thành thục dị tài đa, Tam quế tề khai nhất dạng hoa, Cảnh hữu Quảng Hàn cung tại khách, Dũ tương thể bút tả Hằng Nga. Tạm dịch: Non sông un đúc lắm tài cao, Ba cụm đơm bông quế một màu. Có khách Quảng Hàn vừa mới đến, Bút hoa tô nét nguyệt thanh tao. 5. Về thân thế và sự nghiệp . 5.1._ Tiến sĩ Phạm Tuấn nổi tiếng làm câu đối chữ Hán và chữ Nôm rất hay, rất thâm thúy, còn được truyền tụng: a.)_ Câu đối ở miếu trong vườn: Hữu đức, hữu Nhơn, kim hữu hữu, Như Thần, như Tại, hựu như như. b.)_ Câu đối ở chùa Xuân Ðài (làng chánh quán): XUÂN thâm mặc chứng kim sanh QUẢ, ÐÀI cổ thường khai tích thọ HOA. ( Cụ Phan Bội Châu khi kinh qua đây, đọc câu đối, rất lấy làm khen ngợi) c.)_ Câu đối ở chùa Bến Ðền (làng trú quán) Sơn thủy chung linh tư hữu tự, Quỷ thần giáng phước tín vô tư. d.)_ Câu đối làm cho triều đình Huế đi phúng điếu Cần Chánh Ðại Học Sĩ Nguyễn Thân, người có công giúp Pháp đánh dẹp Phong Trào Cần Vương: Phan Ðình Phùng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn- Duy Hiệu ở Quảng Nam: Sinh như ông, tử như ông, sinh tử như ông - BẤT Công cái thế, danh cái thế, công danh cái thế - VÔ ( Nghe đâu ông Nguyễn Hy con của Nguyễn Thân, kỷ sư ở Pháp về, nghe dư luận đàm tiếu về câu đối này, đã phát đơn kiện ông Phạm Tuấn về việc mạ lỵ thân sinh ông. Ông trả lời là hãy xem trong câu đối, ai là người đứng tên đi, rõ ràng là triều đình Huế, vậy hãy kiện triều đình Huế chứ sao lại kiện tôi. Thế là hoà cả làng ! Suốt 35 năm làm quan (1898-1913), ông chuyên rách ngành giáo dục, qua các chức vụ Huấn Ðạo, Giáo Thọ, Ðốc Học ở các tỉnh miền trung và 4 lần cử làm sơ khảo (1891), phúc khảo (1894), giám khảo (1897), Ở các trường thi Hương Bình Ðịnh; và các phân khảo (1900) ở trường thi Hương Nghệ An. Ông có 3 đời vợ, nhưng các con trai ông đều hữu sinh vô dưỡng, nên cuối cùng vô tự. Năm1913, năm Duy Tân thứ 7, ông hưu trí với hàm Hồng Lô tự Khanh. 5.2._ Tiến sĩ Phạm Liệu văn hay chữ tốt, hoạn lộ hạnh thông, nhất là sau ngày ông đã thiếu bình tĩnh đánh mất sĩ khí Quảng Nam , đang tâm bán rẽ lương tâm và linh hồn cho bọn thực dân Pháp để mưu cầu chút hư danh tục đế bằng cách mật báo cơ mưu, ngày giờ và địa điểm khơỉ nghĩa chống Pháp của Vua Duy Tân và Việt Nam Quang Phục Hội cho Công Sứ Pháp Dc Taster và Tuần Phủ Trần Tiễn Hối ( hậu duệ của Phụ Chánh Trần Tiến Thành ) ở Quảng Ngĩa. Và do đó, Khâm- Sứ Charles liền bí mật ban hành lệnh giới nghiêm , tuớc khí giới tất cả quân lính Việt Nam , bố trí người đặc biệt theo dõi tình hình và chuẩn bả sẵn sàng đàn áp . Kết quả cuộc cách mạng chống Pháp của Vua Duy Tân và Việt Nam Quang Phục Hội miền Trung, khuya ngày 3 rạng ngày 4 tháng 5 năm 1916 ( 1-2 tháng 4 năm Bính Thìn) đã thất bại từ trong trứng nước. Sau đó, Án Sát Sứ Phạm Liệu được thăng chức Phủ Thừa tỉnh Thừa Thiên và tuần tự thăng dần đến Thượng Thư Bộ Binh ở triều đình Huế, rồi Hiệp Tá Ðại Học Sĩ với tước Trừng Giang Nam trí sĩ. Ông có 4 đời vợ và con trai không đông, nhưng hầu hết,con trai ông đều chết trẻ, trước khi lập gia đình. 5.3_ Tiến sĩ Phan Quang đường tiến thân khá bằng phẳng không có gì đáng ghi nhận. Ông làm quan đến chức Thượng Thư ở triều đình Huế, rồi Trí Sĩ (cụ Thượng Phước Sơn). Ông có 3 đời vợ và con trai trưởng là giáo sư Phan Khoang, một học giả, một sử gia, một nhà văn hữu hạng tại đất thần kinh Huế. 5.4._ Phó bảng Dương Hiễn Tiến sau khi vinh quy bái tổ, chưa kịp thi thố tài năng phục vụ đất nước và đồng bào thì thất lộc. 5.5._ Phó bảng Ngô Lý. Theo truyền thuyết dân gian,địa phương, ông Ngô Lý nguyên quán không phải ở Cẩm Sa, nhưng lý trưởng Cẩm Sa thời ấ'y có ăn tiền lót của ông nhiều ít gì đó, mới nhận thực cho ông khai tam đại tại làng đễ lập hồ sơ đi thi. Không ngờ sau ông đổ Phó Bảng ra làm quan. Chúng thấy vô cớ mà rước một ông Tiên Chỉ ở đâu về ăn trên ngồi trước trong làng, nên bọn lý hương âm mưu với nhau ếm mã cụ thân sinh ông, và sau đó ông Ngô Lý chết vì bạo bệnh tại huyện đường tỉnh Nghệ An.Việc ấy sau này Văn thân Quảng Nam biết được, phát đơn kiện và bọn lý hương Cẩm Sa bị án.(Trích tài liệu trong " Quảng Nam Nhân Vật Liệt Chí" của Nguyễn Bội Liên biên soạn, do ty tiểu học Quảng Nam xuất bản năm 1969). Ðể kết luận, chúng ta là những người dân xứ Quảng có hãnh diện và có nhắc nhở đến " Ngũ- Phụng Tề Phi " là chỉ hãnh diện và nhắc nhở cáí tài học cao biết rộng, văn hay chữ tốt, về phương diện văn chương khoa bảng mà thôi, chứ về phương diện an bang tế thế, ích quốc lợi dân, theo như lòng dân xứ Quảng hằng mong muốn thì không có gì đáng được lưu ý đề cao cả. Ðất Quảng Nam, ngoài " Ngũ Phụng Tề Phi " khoa Mậu Tuất (1898) còn có: 1._ Khoa Tân Sửu (1901) 4 vị đỗ Phó bảng đồng khoa và đồng hương là ông Nguyễn Ðình Hiến (Trung Lộc,Quế Sơn), Ông Nguyễn Mậu Hoán (Phú Cốc,Quế Sơn), Ông Võ Vỹ (An phước,Thăng Bình), Ông Phan Châu Trinh (Tây Lộc,Tiên Phước) mà dân gian thường mệnh danh là " TỨ KIỆT " 2._ Trong 4 khoa thi Hương liên tiếp là khoa Ðinh Dậu (1897), khoa Canh Tý (1900), khoa Ất Mão (1903), khoa Mậu Ngọ (1906), có 4 vị đỗ thủ khoa là: ông Phạm Liệu (Trừng Giang, Ðiện Bàn), ông Võ Hoành (Long Phước, Duy Xuyên ), ông Nguyễn Ðình Hiến (Trung Lộc,Quế Sơn ), ông Huỳnh Hanh tức Huỳnh Thúc Kháng (Thanh Bình,Tiên Phước) mà dân gian thường mệnh danh là " TỨ HỔ ". Như vậy: * Ông Phạm Liệu vừa là "Ngũ Phụng Tề Phi" vừa là " Tứ Hổ ". * Ông Nguyễn Ðình Hiến vừa là " Tứ Kiệt " vừa là " Tứ Hổ ". Ngoài những danh sĩ kế tiếp nhau tranh khôi đoạt giáp nói trên,các vị Cử Nhân, Tú Tài, thì khoa nào cũng có, nhưng có một số trong quý vị ấy không ra làm quan, lại ngồi tại làng mở trường dạy học truyền bá triết lý và đạo đức thánh hiền, xây dựng hương chính địa phương, bảo đảm nền thịnh vượng và hạnh phúc chung cho nhân dân, hay viết sách,viết báo cổ động nền Tự Do, Dân-Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam. Nhưng tiếc thay, thời vàng son ấ y nay còn đâu ! ?