Phân tích về tác phẩm truyện kiều của nguyễn du?

giup` cho mjh` nha

ghjhgj
ghjhgj
Trả lời 13 năm trước

Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là hai tác phẩm na ná như nhau. Hiện tượng ấy không phải là không gây phiền toái, nhất là với Nguyễn Du. Nếu không vượt được tác phẩm xuất hiện từ trước, nó chỉ còn là sự mô phỏng. Khá hơn chút nữa, giá trị cũng chỉ còn là sự trau chuốt, gia công, cho dù ở đây có sự chuyển đổi ngôn ngữ và thể loại. Cảm giác "nhuận sắc" này dễ có ở nơi người đọc đã đành mà tác giả Truyện Kiều phải đối mặt với không ít khó khăn. Có lẽ, do ý thức được khó khăn này - cái khó là tránh cho người đọc hiểu rằng đây chỉ là một sự chuyển dịch ngôn ngữ đơn thuần - mà tác phẩm của Nguyễn Du như một sự chỉ dẫn để không mang một cái tên đơn. Truyện Kiều là tên thường gọi căn cứ vào hình tượng của nhân vật trung tâm ; còn ý đồ sáng tạo của Nguyễn Du có lẽ gửi vào cái tên chính, tên gốc là Đoạn trường tân thanh. "Đoạn trường" (đứt ruột) là nguyên nghĩa của Kim Vân Kiều truyện. Còn "tân thanh" (tiếng kêu mới) là sự nâng cấp thăng hoa. Dấu vết của "cổ thư" vì vậy không phải là không có, nhưng nó chỉ còn là dáng dấp, một thứ hồi ức xa xăm, nó thuộc về quá khứ.

Thay thế cho những ấn tượng mờ nhoè dễ lẫn ấy là một hệ thống cốt truyện mà Nguyễn Du có thêm bớt với nền của bức tranh bằng độ đậm nhạt, sáng tối khác đi để từ đó một thế giới nhân vật hiện lên vừa đa dạng, vừa rõ nét, mới mẻ đến ngạc nhiên. Thành công đột xuất này phải nhờ vào tài năng khắc họa, vào nghệ thuật dẫn truyện, vào sự tinh tế của ngôn ngữ văn chương của nghệ sĩ thiên tài - nghĩa là một bản lĩnh. Bản lĩnh ấy truyền cho tác phẩm một linh hồn, một thông điệp nghệ thuật và tư tưởng với những hàm nghĩa nhiều tầng, chủ yếu là trên các khía cạnh sau đây.

1. "Truyện Kiều" - một tiếng kêu thương

Truyện Kiều trước hết và chủ yếu là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt ruột cho một mà cũng là cho mọi số kiếp bị đọa đày. Chủ đề "hồng nhan bạc mệnh" ta đã từng gặp và đã quen gặp không chỉ trong văn học trung đại nước ta mà cả ở văn học phương Đông, đặc biệt là văn học Trung Quốc. Vậy thì có gì mới ở nội dung của tiếng kêu thương ? Thật ra, ngay từ Văn tế thập loại chúng sinh, khi khóc thương cho bao nhiêu cuộc đời bất hạnh, tuy không thể dừng lâu trước một hệ thống nạn nhân, nhà thơ đã lưu ý người đọc về một hạng người - hạng người "buôn nguyệt bán hoa". Cũng như với các hạng người khác, Nguyễn Du có tiếng khóc riêng ; nhưng tiếng khóc về hạng người "nhỡ nhàng một kiếp" trong sự xót tủi có cái cay đắng đến ngỡ ngàng.

Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?

Về hạng người này, một lần nữa Nguyễn Du đã tái hiện trong Truyện Kiều khi nói về nấm mộ của một nàng ca kĩ : Đạm Tiên. Oan hồn của hạng người ấy cứ trở đi trở lại bao lần với một câu hỏi không có lời giải đáp. Dự cảm xót xa ấy không loại trừ một ai, kể cả Thuý Kiều trước cả khi nàng gặp nấm mồ vô chủ. Điều ấy gửi vào cung đàn có tên là "Bạc mệnh". Lần đầu tiên nghe tiếng đàn ấy, Kim Trọng không hiểu : "Rằng hay thì thật là hay. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!". Mười năm sau, Kiều đã giải thích cho chàng, nhưng cách giải thích thưc chất cũng mơ hồ như một cảm nhận chủ quan, khi : "Nàng rằng : vì chút nghề chơi. Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu". Hình như, có một sợi dây xuyên suốt nối liền các cuộc đời hồng nhan sau trước. Vậy thì tại sao như thế, vì sao lại "Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?". Có thể nói, Nguyễn Du đã không giải thích được điều oan nghiệt này( "Cổ kim hận sự thiên nan vấn" - Độc Tiểu Thanh kí), nhưng về trực giác, ông đã nhận ra quy luật phũ phàng đã và còn đang tác động lên từng con người cụ thể. Con người ấy là nàng Kiều. Kiều đại diện cho cái đẹp toàn vẹn, cái đẹp tối đa, trước hết là nhan sắc. Để khắc hoạ chân dung này, dù là với bút pháp ước lệ chứ chưa phải là tả thực, nhà thơ đã để lại nhiều ấn tượng sâu đằm trong tâm trí chúng ta. Một phương diện khắc hoạ này là nhà thơ đã đưa Thuý Vân ra làm đối sánh. Nhan sắc của Vân nếu đẹp thì cũng chỉ ở mức "khả ái" đáng yêu, còn ở Thuý Kiều dứt khoát là hơn Vân một bậc. Liễu phải hờn giận, hoa phải ghen ghét, cái đẹp "tót vời" tạo ra bao nhiêu đố kị. Có nhan sắc đã quý, thêm tài năng, nhan sắc càng lộng lẫy, kiêu sa. Sắc và tài ấy chung quy cũng là cái tình. Sự "sắc sảo mặn mà" của Kiều là cái tình đời luôn dào dạt, thiết tha, luôn quan tâm đến mọi buồn vui của con người và cuộc sống. Trước một nấm mồ vô chủ, mọi người đi qua nhưng Kiều dừng lại. Không chỉ hỏi han, nàng còn nhỏ lệ. Khóc người mà thương mình, thương người như thương mình, sự chân thành ấy đã động thấu đến người nằm dưới mộ. Đạm Tiên dù sao cũng là một người xa lạ, mà tình cảm của Kiều còn thế nói gì đến cha và em. Nếu chỉ vì hiếu, nghĩa, Kiều chưa hẳn đã bán mình. Sức mạnh khiến nàng kiên quyết và chủ động "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha" phải là một tình thương. Tình thương ấy lên tới đỉnh cao : thương người hơn thương mình mới dám hành động như thế. Rồi sau đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần Kiều nhớ nhà là bấy nhiêu lần nỗi nhớ đi liền với niềm thương cứ trào lên khiến người đọc chúng ta không dễ cầm nước mắt. Nhưng rốt cuộc,tài và tình ấy, bông hoa vô giá của cuộc đời ấy lại chính là nguyên nhân tiền định dẫn đến nỗi "kì oan" là có tên trong sổ đoạn trường. Sở dĩ Thuý Kiều bị đày đoạ, theo nhà sư Tam Hợp thì :

Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

Hoá ra tài sắc là vô duyên, tình là tội lỗi. Xã hội cũ đã không chấp nhận sự thái quá, sự hoàn chỉnh trong cá tính con người, nhất là con người có ý thức và tự nhận thức được bản thân. Kiều phải nhận lấy biết bao oan ức xót xa cũng vì lẽ đó : tình yêu tưởng như đã cầm nắm được trong tay bỗng nhiên bị cướp mất; muốn được sống trong trinh bạch nhưng phải tiếp khách làng chơi ; vế với Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư hành hạ ; gắn bó với Từ Hải thì bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa. Có đến hai lần Kiều muốn quyên sinh nhưng lại không sao chết được, đau đớn như phận con kiến bò trong chảo nóng, muốn thoát ra mà không có cách nào thoát được. Kiều bị hành hạ bởi nỗi đau gặm nhấm suốt đoạn đời lưu lạc. Kiều đã không còn là mình. Nói cho thật đúng thì cũng có lúc Kiều được đối diện với chính mình nhưng thật hiếm hoi và cũng thật thấm thía. Ví dụ ở chốn lầu xanh lần thứ nhất :
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Sau mười lăm năm, khi đã sum họp với gia đình, đoàn tụ với chàng Kim, mỗi khi phải nhắc đến , nàng không khỏi "giật mình" mà "xót xa" cho thân phận không chỉ một lần. Đó cũng là một cách tổng kết cuộc đời thông qua chiêm nghiệm bản thân. Đó là một cách tổng kết sâu sắc nhất, thuyết phục nhất.
Truyện Kiều - một tiếng thét phẫn nộ

Về phương diện nhật thức lí tính hoặc tư duy lí luận, Nguyễn Du có thể còn mơ hồ khi hướng nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trần thế vào một lực lượng huyền bí, siêu nhiên, nhưng trái tim nhà thơ có một cách "giải mã" riêng nhờ vào trực giác và vốn sống. Khả năng này ở nhà thơ khá mạnh. Do vậy, những thế lực chà đạp con người, nhất là những con người tài hoa, nhà thơ có thể chỉ trán gọi tên. Và trên phương diện miêu tả nhân vật, đặc biệt là nhân vật phản diện, ngòi bút Nguyễn Du như có thần, không một tác phẩm văn chương đương thời nào sánh nổi. Bọn chúng dù không có quan hệ cụ thể với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống, những mắt xích của một sợi dây chuyền để tạo ra một thứ thiên la địa võng. Trong số ấy có quân buôn thịt bán người, bọn đầu trâu mặt ngựa, lũ sai nha bắng nhắng, kẻ mũ cao áo dài đại diện cho công lý kĩ cương. Cách miêu tả của nhà thơ không phải là "vơ đũa cả nắm". Bởi thực ra trong đó vẫn còn những con người không hẳn đã xấu xa. Đó là những lương tâm ít nhiều còn trong sạch, như ả Mã Kiều trong nhà chứa, mụ quản gia của Hoạn Thư, viên quan xử án vụ Thúc Sinh vượt quyền cha lấy vợ lẽ, một vãi Giác Duyên tuy tu hành thoát tục nhưng vẫn biết cưu mang, cứu vớt những số phận oan khổ , trầm luân. Còn lại số đông rất đáng hỏi tội, như nàng Kiều đã có lần nhờ vào thanh gươm của Từ mà hỏi tội. Bản chất con buôn, biến người thành một thứ hàng thì không một ai đóng vai đạt như tên giám sinh họ Mã. Hắn bẻm mép và trai lơ nhưng lại tự lột mặt nạ bằng hành vi giao tiếp "trước thầy sau tớ" hỗn độn kiểu "cá đối bằng đầu", nhất là ti tiện "Cò kè bớt một thêm hai" để mua rẻ một thứ hàng vô giá chắc mẩm là có lãi mười mươi. Nhân vật bẩn thỉu này lẽ ra không đáng có mặt trong đời Kiều. Nhưng vì có tiền , hắn lại có thể múa may nhảy nhót "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng" để phán quyết. Tú Bà bày mưu bắt Kiều tiếp khách đã nhờ đến sự lì lợm, tráo trở của Sở Khanh. Bọn này mất hết cả nhân tính lẫn nhân hình. Sở Khanh phải đeo mặt nạ giả, còn nếu không, như bộ mặt thật của Tú Bà, không ai nhìn được. Thuý Kiều lần đầu nhìn thấy đã không khỏi ngạc nhiên vì sự phì nộn, nhất là vì cái màu da như da người chết của mụ. Cái đắc chí của mụ là cái đắc chí hèn mọn của kẻ tiểu nhân. Khi bắt được Kiều bỏ trốn , y thật lòng hả dạ :

Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.

Chứng kiến một bông hoa non nớt và trinh bạch là nàng Kiều lần đầu tiên phải chịu cảnh "Uốn lưng thịt đổ dập đầu máu sa", mụ đâu có một chút mủi lòng. Nếu không có sự cầu xin của Kiều, nhất là câu "Phận tôi đã vậy vốn người để đâu" thì Tú Bà đâu có sực tỉnh để dễ bề buông tha. Nhưng buông tha roi vọt để làm cái việc còn đớn đau hơn roi vọt là tiếp khách làng chơi, mụ đã đạt được cái đích cuối cùng. Nhưng người đàn bà trong buổi báo oán sau này xếp hàng thứ nhất không phải là Tú Bà, mà là vợ cả của Thúc Sinh, họ Hoạn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Đối với Tú Bà, Kiều biết người đó là ai (và đã một lần đánh được vào tâm lý). Còn Hoạn Thư có mưu chước khác vì con người y cũng khác. Trước con người này, Kiều bất lực trong sự đối phó. Chẳng hạn như khi bắt Kiều hầu rượu :

Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.

Kiều không kịp đề phòng, kể cả sau đó việc hàn huyên tâm sự với Thúc Sinh, Hoạn Thư tạo tình huống để lừa bắt quả tang. Lần thứ hai, Thuý Kiều thua cuộc. Nàng không khỏi thở dài mà kinh hãi "Người đâu sâu sắc nước đời". Kiều đã nghĩ đúng, nghĩ đúng mà hoảng hồn về cái nơi "miệng hùm nọc rắn". Thoát khỏi hai cạm bẫy là lầu xanh và nhà Hoạn Thư, đến được với Từ Hải, Kiều như một người leo núi cần đến sự nghỉ ngơi. Trai anh hùng gái thuyền quyên đã là một mô hình lý tưởng. Không dễ mấy ai hiểu và yêu Kiều - một cô gái lầu xanh - như Từ Hải. Còn với nàng Kiều, có bao giờ hạnh phúc hiếm hoi lại đưọc che chở bằng một thanh gươm?

Nhưng sự tráo trở của một thứ Sở Khanh được diễn lại. Tài thao lược kinh luân của viên tổng đốc Hồ Tôn Hiến chẳng qua cũng chỉ là sự lọc lừa được nâng cấp, nó đánh vào lòng tin của một người cả tin. Người cả tin ấy là nàng Kiều sau khi đã trải qua bao "gió dập sóng va", một kẻ lưu lạc xa nhà với một quê hương đêm ngày tưởng nhớ. Nó lại nhân danh một quyền lực tối cao để mà hứa hẹn. Mũi tên của Hồ Tôn Hiến đã nhằm vào trúng đích. Đó là Kiều, một con người tưởng như đã từng trải, dạn dày, nhưng vẫn còn một góc khuất ảo tưởng, ngây thơ. Bị trúng kế mà khuyên Từ Hải ra hàng, nàng biết đâu đã đốt cháy không chỉ sự nghiệp của Từ mà đốt luôn những gì còn sót lại - chút hi vọng của mình được nhen nhóm lên sau hàng chục năm trời lưu lạc. Vì vậy, có lẽ chưa có cái đau đớn nào như lần này. Cũng vẫn là tiếng đàn, lần này gẩy lên không chỉ "như khóc như than" mà đã là "bốn dây rỏ máu", bởi nó không còn là xót xa mà đã căm giận, oán hờn. Vì ảo tưởng và ngây thơ mà Kiều đã giết Từ Hải và vô hình chung cũng là tự giết mình. Vì ảo tưởng ngây thơ mà nàng đã đặt tất cả niềm tin vào kẻ chức trọng quyền cao nhưng lòng lang dạ sói, nham hiểm khôn lường. Sa sẩy lần này, Kiều không còn có cách nào để có thể đứng lên được nữa. Vì vậy mà cái đợi chờ nàng phía trước là "nấm mồ hồng nhan", là con sông Tiền Đường mà Đạm Tiên đã hẹn hò từ mười lăm năm trước.
3. "Truyện Kiều" - một giấc mơ

Cảm hứng nhân văn bao trùm lên tư tưởng Truyện Kiều không chỉ thể hiện trên hai bình diện trong đời thực là tiếng kêu thương hay tiếng thét phẫn nộ ; nó còn ấp ủ những giấc mơ. Đây chính là mặt sáng, nguồn ấm của cuộc đời, nhất là cuộc đời tăm tối. Trước hết là giấc mơ tình yêu.

Thực ra trong khu vực truyện Nôm của một thế kỉ truyện Nôm, vấn đề này đã được đặt ra khá táo bạo. Cùng với những Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sự nhập cuộc vào dòng chảy chung của một thời đại văn chương. Nhưng đồng thời, tác phẩm của Nguyễn Du còn là sự nâng cấp, vươn tới một đỉnh cao, ít có tác phẩm đương thời nào so sánh được. Không chỉ dừng lại ở một tình cảm nhất thời bồng bột, sự vượt lên của Truyện Kiều là ở sức đi xa. Nó không chỉ diễn ra với độ dài suốt mười lăm năm lưu lạc mà còn là sự khơi trong gạn đục tri âm. Tình yêu vững bền bởi nó vị tha hơn là vị kỉ. Chẳng hạn, Kiều khi gặp lại Kim Trọng sau này, nàng đã nói " Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa" ;nhưng với chàng Kim, nàng vẫn là trong sạch, bởi một người biết quyền biến " lấy hiếu làm trinh" thì sự trong sạch ấy giống như bông sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ý nghĩa của câu "Hoa tàn mà lại thêm tươi" là sự nhìn nhận trên khía cạnh tinh thần ấy. Đây là cái nhìn nhân văn, một cái nhìn vừa đúng, vừa sâu trong một xã hội khắt khe nhiều định kiến. Trước đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần nhớ tới cố hương là bấy nhiêu lần Kiều không quên được cố nhân. "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng", câu thơ hiện thực hoá, hình tượng hoá một nỗi niềm mảnh mai mà bền chắc. Còn với Kim Trọng, dù đã đỗ đạt và yên bề gia thất nhưng khoảng thiếu hụt của đời chàng và lòng chàng vẫn là hình bóng người xưa. Vì vậy mà Kim Trọng không lúc nào nguôi yên, chỉ muốn "Rắp mong treo ấn từ quan. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua" để đi tìm một thứ "bóng chim tăm cá". Mối tình ấy sở dĩ luôn mãi xanh tươi vì nó bước qua cái vòng cấm khắt khe lễ giáo, vì nó là mối tình đầu. Ngay từ buổi đầu gặp gỡ trong hội Đạp Thanh, một tình yêu đã chớm nở. Để nói hộ cái tâm trạng xốn xang hồi hộp của "tình trong như đã" dù hai người vẫn còn ý tứ, rụt rè, Nguyễn Du đã dùng một phác thảo thiên nhiên nói hộ. Vẫn là nhịp cầu nho nhỏ như lúc gặp Đạm Tiên nhưng nó như đã có hồn. Chỉ thêm một chút bóng chiều với dịu dàng tơ liễu, người và người đã man mác vấn vương. Sau này có lần Kiều chủ động đến với Kim Trọng. Cuộc gặp lần ấy, với Kim Trọng, nó giống như một giấc chiêm bao và đẹp như trong mộng. Rất giống với cuộc gặp ở Phan Trần : "Lan mừng huệ, huệ mùng lan. Ngọc quan khấp khởi, từ nhan ngập ngừng", nhưng cô gái trong Phan Trần chưa thể làm cái việc như Kiều đã làm "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình". Phải nói tình yêu Kiều - Kim như một thứ rượu say người, có sức quyến rũ tất cả những ai một lần đọc nó. Chẳng phải người xưa vì đứng trên lập trường của bức tường lễ giáo, từng răn đe :


Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều


Cùng với hạnh phúc lứa đôi là khát vọng công lý, khát vọng tự do. Trong bối cảnh cuộc đời cũ, bao nhiêu bất công, oan khuất đè nặng lên bao kiếp người, nhất là những người lương thiện, những kẻ tài hoa. Nếu chấp nhận nó bằng cách khoanh tay bất lực hay tự an ủi bằng mọi thứ bùa mê thì cuộc sống đầy nghịch lý ấy đâu phải cuộc sống đích thực của con người. Chính vì vậy mà thanh gươm của Từ Hải phải vung lên để bênh vực những thân phận "con sâu cái kiến". Cuộc sống ấy cần đến thanh gươm ấy. Thanh gươm của Từ như một thứ tuyên ngôn về lẽ phải "Anh hùng tiếng đã gọi rằng. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Vì vậy còn gì vui hơn cuộc gặp gỡ trùng phùng giữa Kiều và Từ Hải sau bao ngày xa cách. Ấy thế mà chỉ nghe qua nỗi oan khuất của Kiều " Khi Vô Tích khi Lâm Tri", cơn giận của Từ đã không sao kìm giữ nổi. Là hiện thân của công lý, Từ không dừng lại ở sự cảm thông. Cần đến hành động để can thiệp,Từ đã "nghiêm quân tuyển tướng" ra tay lập tức. Vượt lên quan hệ cá nhân, việc làm ấy có tính xã hội. Buổi xử án diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, đặc biệt là trước khi báo oán, Kiều đã dõng dạc :


Nàng rằng: Lồng lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.


Việc làm ấy của Kiều không chỉ được Từ Hải và ba quân ủng hộ mà mãi về sau nó còn được ngợi khen trong dư luận. Kẻ lại già họ Đô trong phủ đường của Kim Trọng kể lại cái việc xảy ra đã hơn mười năm này và không quên thêm lời bình luận "Đã nên có nghĩa có nhân". Tuy nhiên, công lý ấy xét đến cùng không phải mục đích. Nó chỉ là một thứ phương tiện để con người đi tới tự do. Bởi hạnh phúc thực sự của con người bao giờ cũng gắn với điều kiện tự do. Trong Truyện Kiều, Từ Hải đã nghĩ đến tự do của "muôn người" trước khi nghĩ đến tự do của "một người". Không thế thì vì sao "Nửa năm hương lửa đương nồng" với người tri kỷ,"Từ đã động lòng bốn phương"? Dường như cánh chim đại bàng ấy luôn bầu bạn với trời xanh. Một mình một ngựa giữa mênh mông trời bể, không có địa chỉ rõ ràng, không người thân vì "Theo càng thêm bận biết là đi đâu", Từ Hải đến với những người cần đến thanh gươm để mà vùng vẫy. Không có gì ràng buộc đưọc Từ, kể cả tình yêu. Từ đi, Kiều cũng xin đi, nhưng người anh hùng không muốn "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Nghe lời tri kỷ, Từ cởi giáp ra hàng. Đó không phải hành động nhất quán của người anh hùng cái thế. Ngược lại, trong sự cân nhắc, đắn đo, hai cuộc sống được đặt lên bàn cân so sánh. Bản chất của cuộc đời Từ, lý tưởng của Từ là ánh sáng. Nó không chấp nhận sự hoà nhập với bóng đêm. Bản chất Từ là con người tự do, cho nên chỉ cần nghĩ đến khuôn phép, nhất là khuôn phép của triều đình là đã khó chịu, vì cái cảm giác đụng đến chỗ nào cũng vướng "Áo xiêm ràng buộc lấy nhau. Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?". Nhưng cuối cùng Từ phải "Đem thân bách chiến làm tôi triều đình" chẳng qua vì quá tin Kiều. Cái chết của nhân vật gần giống với huyền thoại này là vì một bài học đắt giá không sao sửa chữa được. Đó là nhân chứng về một lần ngộ nhận của con cá kình ngoài biển bị mắc cạn trong ao. Bị cầm tù, điều này đồng nghĩa với cái chết, cho dù chỉ là con đường đi đến sự cầm tù đó mà thôi.

Nói về hạn chế trong tư tưởng của Truyện Kiều thì sự "bó thân về với triều đình" của Từ là một trong những "bất cập" của Nguyễn Du. Nhà thơ, dù là một nghệ sĩ thiên tài, cũng đã không điều chỉnh được ước mơ với hiện thực. Bởi cái mong muốn, cái khao khát của con người này không thể hoà nhập được với kỷ cương. Kết thúc Truyện Kiều giống như một định mệnh nghiệt ngã. Mở ra là một triều đại "Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng", gấp cuốn sách lại là "thắng lợi" của Hồ Tôn Hiến. Sư nghiệp của Từ Hải có là một con sóng, dù sóng lớn đến đâu nhưng rốt cuộc mặt nước tù đọng lưu niên cũng không có gì thay đổi. Cái nhìn bế tắc này là sự giằng co lịch sử hay chính mâu thuẫn của Nguyễn Du ? Vì bế tắc nên dù thương xót cho Kiều biết mấy nhà thơ cũng đành đổ lỗi cho số mệnh "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau". Về trực giác, bằng trái tim, Nguyễn Du nhìn thấy một cơ chế, những thế lực bạo tàn cụ thể, nhưng trong tư duy, khi lý giải, cái ác cái xấu vẫn cứ mơ hồ, không rõ là ai. Đó là chưa nói đến những hạn chế khác trong nhận thức của Nguyễn Du như vai trò của thần quyền, của Nho giáo, Phật giáo. Ngưỡng mộ, đồng tình với nhan sắc, với tài hoa nhưng rồi chính Nguyễn Du lại phủ nhận nó. Nhan sắc là "vô duyên", còn tài hoa thì "Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần". Tuy vậy, xét đến cùng, hạn chế tư tưởng trong Truyện Kiều cũng đồng thời là hạn chế của nhiều truyện Nôm nói riêng, của văn chương trung đại nói chung. Đó là cái ngưỡng không ai có thể vượt qua, vì lịch sử chưa có những tiên đề cho giải pháp.
4. Phân tích Nghệ thuật của Truyện Kiều

Trở lại điểm bắt đầu của Truyện Kiều là Kim Vân Kiều truyện. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc thể loại tiểu thuyết viết bằng văn xuôi bạch thoại của Trung Quốc. Đề tài của loại tiểu thuyết này là tài tử - giai nhân, thư sinh - kĩ nữ vốn đã thành truyền thống từ đời Đường, phát triển mạnh trong thời Minh, Thanh. Không chỉ khuôn sáo, công thức về mô típ truyện, riêng về mặt tư tưởng, đó là sự dung hoà giữa nhu cầu buông thả tình cảm kiểu thị dân với việc ngợi ca, khẳng định lễ giáo phong kiến. Ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có Truyện Kiều, những mệnh đề mang tính xung đột như "tài mệnh tương đố", "hồng nhan bạc mệnh" là lẽ đương nhiên. Song cái mới, cái sáng tạo của Nguyễn Du là trên các mặt sau đây.

Trước hết, từ một cuốn tiểu thuyết chương hồi (20 hồi) bằng văn xuôi của Trung Quốc, Nguyễn Du đã tái tạo thành một truyện thơ của Việt Nam. Nếu tác phẩm chương hồi lấy những đoạn , những hồi làm cấu trúc tương đối chỉnh thể, độc lập với nhau thì Truyện Kiều là một truyện thơ liền mạch. Nói đến sự "liền mạch" như thế không thể không nghĩ đến hai điều. Đó là sự nhào nặn, thêm bớt tình tiết trên cơ sở lấy nhân vật làm trung tâm, và đó còn là vai trò của người dẫn truyện. Vai trò này tác động bằng giọng điệu, dù là ở một vị thế khách quan nhưng không phải không ảnh hưởng tới người nghe, người đọc. Chính vì đứng về phía người nghe, người đọc mà nhà văn tạo được cho tác phẩm một góc độ thẩm mỹ riêng, một quan hệ mới, những yếu tố thi pháp văn xuôi hiện đại sau này.

Nói đến một tác phẩm tự sự, ngoài vai trò của người dẫn truyện, phải kể đến nhân vật - linh hồn của tác phẩm. Trong bước phát triển còn sơ khai của thể loại truyện Nôm thời kỳ này, vị trí của nhân vật thường bị đầy lùi xuống hàng thứ hai, thay vào đó là cốt truyện. Nhưng ở Truyện Kiều, điều đó không xảy ra. Đó là một tiến bộ đáng kể, một sáng tạo lớn của Nguyễn Du so với mặt bằng truyện Nôm Việt Nam và cả so với tác phẩm nguyên mẫu. Chính vì vậy mà đọc Truyện Kiều, người ta nhớ đến nhân vật hơn là nhớ đến cốt truyện. Kết quả đáng ghi nhận này là nhờ cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Cách xây dựng ấy nhờ vào vốn sống dồi dào của tác giả tạo nên cái nền chất liệu; lại dựa vào vốn học, dùng lối "điểm nhãn" để tinh lọc của cổ hoạ, cổ thi. Vì thế nhân vật dù là chính diện hay phản diện, chỉ bằng vài nét chấm phá đơn sơ đã trở thành một nguyên khối, một cá tính, một con người có thực : Tú Bà, Mã Giám Sinh - phường buôn thịt bán người vì lợi vì tiền mà đang tay vùi hoa dập liễu; Hoạn Thư đày đoạ Thuý Kiều không chỉ bởi vì ghen tuông; Hồ Tôn Hiến danh vị cao sang mà nhân tâm hèn hạ; Từ Hải là bậc anh hùng cái thế mà có lúc cũng dại dột, cả tin; Kim - Kiều đôi trai tài gái sắc tuy cuồng nhiệt say đắm nhưng thanh cao trong sạch; Thúc Sinh lép vế nhưng vẫn là một kẻ chung tình... Trong việc xây dựng nhân vật, Nguyễn Du kết hợp miêu tả ngoại hình với khắc họa nội tâm, tả cảnh với tả tình, đặt cảnh và tình trong những trường hợp cụ thể của nhân vật. Bao nhiêu lần Kiều đánh đàn mà không lần nào giống lần nào. Tiếng đàn ấy dành cho Kim Trọng hai lần trước sau cũng khác. Nỗi nhớ mẹ cha cũng thế. Vầng trăng trong tác phẩm trở đi trở lại, khi buồn khi vui : có khi là nhân chứng cho sự thề nguyền, lúc bầu bạn cho đỡ cô đơn, cũng có lần là "vầng trăng xẻ nửa". Vẫn là cánh én mùa xuân nhưng xào xạc buồn tẻ cũng có mà tươi tắn nên thơ cũng có...

Cùng với thành công về xây dựng nhân vật, Truyện Kiều của Nguyễn Du còn được viết ra với một phong cách ngôn ngữ bậc thầy. Ngôn ngữ đó đúng là đẹp, giản dị mà sang trọng, ngắn gọn mà dư ba, dân gian mà bác học. Ngòi bút của Nguyễn Du như con dao phân tích và mổ xẻ, như một sợi dây độc huyền ngân lên nhiều tâm trạng, nhiều giọng điệu. Nhân vật, tâm trạng dù khó tả đến đâu, nhà thơ vẫn truyền đưọc cái thần của nó. Ngay khi lược thuật diễn biến thời gian như từ cuối hạ đến xuân - một năm vần xoay chuyển động, khó ai viết được hai câu :


Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.


Mỗi mùa một khác. Cả cái khác nhau trong sự giống nhau. Đó là trường hợp Nguyễn Du dùng từ đồng âm khác nghĩa : "Phận rầu dầu vậy cũng dầu" hay "Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình". Việc học tập và sử dụng ca dao trong Truyện Kiều cũng là một gợi ý cho các nhà thơ. Ở đây, sự kế thừa và sáng tạo để nâng cao và tạo được một bản sắc riêng rất rõ. Từ câu ca dao "Ai đi muôn dặm non sông. Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy", Nguyễn Du cắt đi và nén lại. Áp suất ngôn từ vì thế mà tăng lên :


Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.


Nói cho thật đúng, sự sáng tạo này còn nhờ dựa vào kiến thức của thơ ca bác học. Hai nguồn học vấn này tạo nên sự đặc sắc của văn chương. Ấy là chưa nói ngôn ngữ ấy vừa là của bút pháp tự sự lại vừa là của bút pháp trữ tình, chưa nói đến thể thơ. Bởi vậy Truyện Kiều là một kiến trúc vừa đồ sộ, vừa tinh vi. Nó là khối toàn bích đa chiều.

Với một nghệ sĩ, văn chương bao giờ cũng là một sự kí thác. Càng là nhà thơ sinh ra trong hoàng hôn của một chế độ xã hội đang tàn, điều gửi gắm ấy càng lặn sâu vào chiều dọc, chiều ngang - những sợi chỉ dệt nên tác phẩm. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm lớn, vì vậy tâm sự tâm tình càng lớn. Cái lớn ấy phải chăng là những yêu thương, đau đớn, những khát vọng, băn khoăn mà sau này Tố Hữu nói gọn lại là nỗi niềm : "Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương". Tâm sự, nỗi niềm ấy là một bi kịch, nhưng nó cũng là một bản tình ca mà tình yêu của nhà thơ tạo nên giai điệu. Ngày nay chưa đến ba trăm năm, đọc lại Nguyễn Du, chúng ta hiểu một con người mà với con người ấy, đời và thơ là một, tư tưởng và nghệ thuật là một. Thành công của Truyện Kiều chính là ở đó : sự chân thực và tài hoa.

fghgfshh
fghgfshh
Trả lời 13 năm trước

Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước hương trời" và có tài "cầm kỳ thi họa".

Theo kịch tính của tác phẩm, có thể chia truyện thành những phần nhỏ như sau:

Nhận định chung của Nguyễn Du

Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện.
Trăm năm trong cõi người ta,Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhauTrải qua một cuộc bể dâu,Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.Lạ gì bỉ sắc tư phongTrời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Tả hai chị em

Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông (1522-1566), trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Vân và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thúy Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thúy Kiều lại hơn hẳn cô em.
Đầu lòng hai ả tố nga,Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.Mai cốt cách, tuyết tinh thần,Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười....

Kiều thăm mộ Đạm Tiên

Trong một lần đi tảo mộ vào tiết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên, một "nấm đất bên đàng", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan" "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:
Đau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Kiều gặp Kim Trọng

Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng, là một người "vốn nhà trâm anh", "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:
Người đâu gặp gỡ làm chiTrăm năm biết có duyên gì hay không

Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi món kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo, cô đã thuyết phục được Kim Trọng:
Vội chi liễu ép hoa nài,Còn thân ắt lại đền bồi có khi!Thấy lời đoan chính dễ nghe,Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân

Kiều bán mình chuộc cha

Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Bọn sai nha đầu trâu, mặt ngựa đã đánh đập cha và em nàng một cách tàn nhẫn trong nỗi oan kêu trời không thấu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước "trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để thọ tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:
Cậy em, em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:
Phận sao phận bạc như vôiĐã đành nước chảy hoa trôi lỡ làngÔi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!'Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.

Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà Mã Giám Sinh vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi "con ong đã tỏ đường đi lối về", Thuý Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng đặc biệt là nỗi nhớ mối tình của nàng với Kim Trọng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờBên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

và nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều:
Xót người tựa cửa hôm maiQuạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.Sân Lai cách mấy nắng mưaCó khi gốc tử đã vừa người ôm

Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:
Buồn trông cửa bể chiều hômThuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ rầu rầuChân mây mặt đất một màu xanh xanhBuồn trông gió cuốn mặt duềnhẦm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Kiều mắc lừa Sở Khanh

Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh, một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh.
Than ôi! sắc nước hương trời,Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?

Kiều vội vàng trao thân cho Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,Một tay chôn biết mấy cành phù dung!

Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Kiều gặp Thúc Sinh

Thúc Sinh tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân đầy nhục dục của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh
Rõ màu trong ngọc trắng ngà!Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".
Khi hương sớm khi trà trưa,Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.

Thúc Sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc Ông (bố của Thúc Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:
Phong lôi nổi trận bời bời,Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.Quyết ngay biện bạch một bề,Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!

Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh.không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:
Dạy rằng: Cứ phép gia hình!Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.Phận đành chi dám kêu oan,Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.Một sân lầm cát đã đầy,Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.

Thấy Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh.

Kiều và Hoạn Thư

Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi biết Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, bố của Thúc Sinh đã phải thốt lên:
Thương vì hạnh trọng vì tàiThúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba

Kiều đã ở cùng Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:
Bốn dây như khóc như thanKhiến người trong tiệc cũng tan nát lòngCũng trong một tiếng tơ đồngNgười ngoài cười nụ, người trong khóc thầm

Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do gì. Thuý Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn Thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên (duyên giác ngộ?). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. "Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên Kiều lấy

Kiều gặp Từ Hải

Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một anh hùng lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau "Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa" và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:
Nàng rằng:"phận gái chữ tòng"Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"Từ rằng:"tâm phúc tương triSao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình..."

Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy.

Kiều báo ân trả oán

Lúc vui mừng cũng là lúc Thuý Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận nữa.

Kiều tự vẫn

Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:
Trên vì nước dưới vì nhà,Một là đắc hiếu hai là đắc trung.

Từ Hải đã phân vân:
Một tay gây dựng cơ đồBấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoànhBó thân về với triều đìnhHàng thần lơ láo phận mình ra đâuÁo xiêm ràng buộc lấy nhauVào luồng ra cúi công hầu mà chiSao bằng riêng một biên thùySức này đã dễ làm gì được nhauChọc trời khuấy nước mặc dầuDọc ngang nào biết trên đầu có ai

Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:

Mặt nào trông thấy nhau đây?Thà liều sống thác một ngày với nhau!

Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:
Một cung gió thảm mưa sầu,Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!Ve ngâm vượn hót nào tày,Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.

Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự vẫn.

Kim Trọng đi tìm Kiều

Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:
Vật mình, vẫy gió, tuôn mưaDầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn maiĐau đòi đoạn, ngất đòi thôiTỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê

Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng dào tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mang về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".

Đoàn tụ

Sau mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
Thân tàn gạn đục khơi trongLà nhờ quân tử khác lòng người ta

Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa.Tuy rằng ngoài mặt hai người đã đồng ý nhưng hai người đã thầm nói sẽ trở thành bạn "chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ".

Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trờiTrời kia đã bắt làm người có thân.Bắt phong trần phải phong trầnCho thanh cao mới được phần thanh cao

Trả lời 9 năm trước
co ve nhu la k phai voi de roi