Phân tích về tác phẩm phú sông bạch đằng?

lam` gjup' mjh` paj` nay` zoj....noj^ dung on thj hox kj` 2 do'...cam~ on nhju`..nhju`......

djghjdgh
djghjdgh
Trả lời 13 năm trước

I. Giới thiệu chung

+ Trương Hán Siêu là vị quan thời Trần , tính tình cương trực học vấn uyên thâm ,vừa có tài về trính trị , vừa có tài về văn chương . Ông cùng Nguyễn Trung Ngạn theo lệnh của vua trần Dụ Tông soạn bộ Hoành Triều đại điển ( nói về những điều lệ quy tắc lớn của triều đại ) và bộ Hình thư ( nói về pháp luật ) để ban hành cho xã hội.

Tác phẩm của Trương Hán Siêu hiện còn 4 bài thơ và 3 bài văn , trong đó Bặch Đằng giang phú là tác phẩm đặc sắc của lịch sử văn học Việt Nam.

+ Bạch Đằng giang phú là tác phẩm xuất sắc của Trương Hán Siêu , đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý - Trần ,một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam

+ Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lý nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam .Do đó,Bặch Đằng giang phú cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp của việc đè cao vai trò , vị trí của con người trước lịch sử .

II.Phân tích

1.Sơ lược vài nét về tác phẩm:

- Bặch Đằng là một nhánh của sông Kinh Thầy .Tại đây , năm 938 Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán ,giết Lưu Hoằng Thao ( con vua Nam Hán ), năm 981 Lê Hoàn chiến thắng quân Tống và năm 1288 , Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên – Mông bắt sống Ô Mã Nhi. Sông Bặch Đằng thành di thích lịch sử lừng danh và trơ thành nguồn cảm hứng cho bao tác phẩm nghệ thuật.

- Trương Hán Siêu nhân dịp dạo chơi sông Bạch Đằng đã làm bài phú này . Chưa rõ bài phú viết năm nào , chỉ ước đoán sáng tác khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi.

- Bạch Đằng giang phú được viết theo phú cổ thể , nguyên tác viết bằng chữ Hán . Cấu tứ của tác phẩm theo hình thức đối đáp giữa chủ và khách.Khách là người yêu cảnh trí thiên nhiên ,có thú du ngoạn , tâm hồn khoáng đạt , tâm huyết với lịch sử dân tộc .Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm hiểu lịch sử dân tộc , noi gương của Tử Trường xưa ( sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời Hán ) .Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp , vừa là dân địa phương , vừa là những người đã từng chứng kiến , từng tham gia chiến trận .Cũng có thể nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư câtú , tác giả xây dựng lên đẻ dễ dàng bộc lộ cảm xúc , suy nghĩ về đất nước , dân tộc.

2. Bài phú đã làm sống dậy hào khí chiến thắng của trận Bạch Đằng:

- Cảnh sông Bạch Đằng được khắc hoạ hùng vĩ , hoành tráng qua cái nhìn của khách

Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một mầu.
Nước trời:một sắc,
Phong cảnh :ba thu

- Giữa lúc khách đang hồi tưởng về quá khứ thì các bô lão xuất hiện cho khách nghe về những trận đánh thuỷ chiến đã xảy ra nơi đây:

Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa , thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Các bô lão đã nhắc lại hai chiến thắng lớn theo dòng hồi tưởng ,năm 1288 Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã ,kể đến là chiến thắng của Ngô Quyền năm 938.Bài phú chủ yếu tái hiện trận đánh năm 1288.

- Lúc đầu ta ra quân trong thế trận giằng co , ngang tài ngang sức bất phân thắng bại , báo hiệu một cuộc thuỷ chiến ác liệt:

Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.

- Kẻ thù xuất hiện với tư thế hung hăng kiêu ngạo , cậy đông và mạnh có thể quyết sạch cả nước ta :

Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Nhưng tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.

- Cuối cùng , quân ta với lòng yêu nước , tinh thần quyết chiến , ngọn cờ chính nghĩa đã chiến thắng :

Khác nào như khi xưa :
Trận Xích Bích , quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì , giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Nghệ thuật so sánh nhằm đề cao trận thuỷ chiến Bạch Đằng ngang tầm với những trận oánh liệt nhất trong lịch sử Trung Quốc.

- Cách miêu tả trận đánh thật tình đã làm sống dậy hào khí chiến thắng của Bạch Đằng .Lời kể súc tích , ngắn gọn mà vẫn cụ thể , tỉ mỉ khiến người đọc tưởng như cuộc kháng chiến đang diễn ra trước mắt , chuyện quá khứ mà như đang xẩy ra trong hiện tại.Câu văn dài gợi không khí trang nghiêm , thiêng liêng ; câu văn ngắn gợi không khí gấp gáp , căng thẳng.

3. Bài phú làm sáng lên những chân lý muôn đời của dân tộc:

- Trước hết , qua lời kể của các bô lão , bài phú muốn nói khẳng định vai trò , sức mạnh của con người:

Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc điện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân : có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : có cuốc sĩ họ Hàn.
Kìa trân Bặch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Ta thắng giặc vì ta có thiên thời , địa lợi trời cho nơi hiểm trở, nhưng điều quyết định là ta có nhân tài.Mượn những danh nhân và điển tích của Trung Quốc , bài thơ phú nhằm ca ngợi con ngươi Đại Việt , đặc biệt là Trần Hưng Đạo , người có tài mưu lược , phán đoán tình hình, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến .

- Nếu lời nói của các bô lão khẳng định con người là yếu tố quyết định thì khách trong lời ca của mình đã bổ sung thêm , có người tài là cần thiết nhưng quan trọng hơn , đó là đức cao , tức là có tình nghĩa , đạo lý của dân tộc:

Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đát hiểm , cốt mình đức cao.

- Cuối cùng , bài phú muốn nêu lên chân lý về sự bất tử của những anh hùng như dòng sông kia hùng vĩ và bất biến:

Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong ,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!

III.Tổng kết

- Bạch Đằng giang phú đạt đỉnh cao về nghệ thuật phú , khẳng định niềm tự hào về truyền thống anh hùng , nhân nghĩa , ca ngợi người tài của dân tộc

- Chân lý mà Bặch Đằng giang phú nêu lên mãi mãi là bài học về việc giữ nước và dựng nước.

Tran Van Trung
Tran Van Trung
Trả lời 13 năm trước

Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh TẾ Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”B1EA1ch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẫm lấy đề tài sông Bạch Đằngnhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.
“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy pạm rõ rang. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:
... “Tiếng thơm đồn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt
Nhớ người xưa chừ lệ chan…”
Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gán liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh
Hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng giang phú”.
“Giương buồm giong gió chơi vơi”.
“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.
Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,...
Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:
“Nơi có người đi
Đâu mà chẳng biết”.
Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.
“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.
“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”
Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:
“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,
Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo”
“Bát ngát sóng kình muôn dặm”
Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm - Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang -Dịch nghĩa ) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:
“ Bờ lau san sát.
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô"
Bpờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm - Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” ( “Cửa Biển Bạch Đằng”).
Trương Hán Siêu miêu tả dòn sông Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm.Nhũng ẩn dụ và liên tưởng mói về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:
“ Buồn vì cảnh thảm
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.
Một tâm trạng: “ buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “ đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”
“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”
Các bô lão - nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống đọng biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:
“ Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,
Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao”.
Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối lập đã khắc sâu và tô đậm niềm tự hào sông núi. “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” vì nó là mồ chôn lũ xâm lược phương Bắc.
Năm 938, Ngô Quyền dùng mưu đại phá quân Nam Hán:
“Bạch Đằng một trận giao phong
Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu”
Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến - chiến lược bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược Nguyên - Mông:
“ Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông”.
Trở lại bài phú: “Đưong khi ấy…” đó là ngày 9 tháng 4 năm 1288, trận thuỷ chiến đã diễn ra ác liệt trên sông Bạch Đằng. Dòng sông nổi sóng với “ muôn đội thuyền bè”. Cảnh tượng chiến trường vô cùng tráng liệt: “ Tinh thần phấp phới - Tỳ hổ ba quân - Giáo gươm sáng chói”. Các dũng sĩ nhà Trần với quyết tâm “ Sát Thát, với dũng khí mạnh như hổ báo xung trận. Chiến sự dữ dội ác liệt, giằng co: “ Trận đánh thư hùng chửa phân - Chiến luỹ Bắc Nam chống đối”. Khói lửa mù trời. Tiếng gươm giáo, tiếng quân reo , tiếng sóng vỗ. Ngựa hý, voi gầm. Thuyền giặc bị đốt cháy, bị va vào cọc gỗ bịt sắt nhọn vỡ đắm tan tành. Máu giặc nhuộm đỏ dòng sông. Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết phóng bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận dụng, góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi:
“Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi”.
“Đại Việt sử ký” ghi rõ: Các tướng như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống, hàng vạn giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dòng sông Bạch Đằng như một chứng nhận lịch sử:
“Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.
Trận thủy chiến sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và quy mô hoành tráng, kỳ vĩ. Cũng như trận Xích Bích, trận Hợp Phì “quân Tào Tháo tan tác tro bay”… “quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”, trận Bạch Đằng giang đã đập tan âm mưu bành trướng xâm lược của Lưu cung, của Tất Liệt: “Trời cũng chiều người - Hung đồ hết lối”. Hung đồ là một cách nói khinh bỉ đối với lũ giặc phương Bắc.
Đất hiểm và nhân tài
Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh, nhục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền và nhờ có hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng của áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã neu lên bài học lịch sử vô giá:
“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.
Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân tài. “Cuộc điện an” là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước.
Bằng lối so sánh, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò to lớn của Lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc đã để lại võ công lừng lẫy một thời, qua đó tác giả tự hào ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt”
“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.
“Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy lần thứ 3 giặc Nguyên - Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng “coi thế giặc nhàn”, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: “Tiếng thơm đồn mãi - Bia miệng không mòn”.
Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thủy chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kỳ vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài về vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của “Bạch Đằng giang phú”.
“Cốt minh đức cao”
Phần cuối bài phú là bài ca của lão về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng hùng vĩ “một dải dài ghê” là mồ chôn lũ xâm lăng. “Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời, lưu danh sử sách. Nhà thơ dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất”
“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”
“Thánh quân” là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên - Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, côt mình đức cao”. Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm hoạ ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức - Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” - đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.
Tóm lại, “Bạch Đằng giang phú” là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sau lắng. Âm điệu anh hùng ca, không khí trang trọng cổ kính. Tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành công của Trương Hán Siêu. Đẹp vậy thay tiếng hát dòng sông:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”….

Do Hoang Ha
Do Hoang Ha
Trả lời 13 năm trước

Hoặc đây:

Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh TẾ Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”Bạch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẫm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.

“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.

Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy pạm rõ rang. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:

... “Tiếng thơm đồn mãi,

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sông chừ ủ mặt

Nhớ người xưa chừ lệ chan…”

Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gán liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh

Hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng giang phú”.

“Giương buồm giong gió chơi vơi”.

“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.

Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,...

Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:
“Nơi có người đi

Đâu mà chẳng biết”.

Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.

“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.

Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.

“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”

Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,

Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo”

“Bát ngát sóng kình muôn dặm”

Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm - Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang –Dịch nghĩa ) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

“ Bờ lau san sát

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy

Gò đầy xương khô

Bpờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” ( “Cửa Biển Bạch Đằng”).

Trương Hán Siêu miêu tả dòn sông Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm.Nhũng ẩn dụ và liên tưởng mói về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

“ Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.

Một tâm trạng: “ buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “ đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”

“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống đọng biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:

“ Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,

Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao”.

Hoang Trung Thuc
Hoang Trung Thuc
Trả lời 13 năm trước

Gợi ý làm bài

Giá trị lớn nhất của bài phú này là : với lòng tự hào dân tộc,bằng một hơi văn liền mạch,bút pháp bi hùng,tác phẩm gợi lên trong lòng người đọc cảm hứng hào hùng về những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng,cảm hứng bi tráng thuộc hào khí Đông A.

1.Tác giả

- Trương Hán Siêu ( ?-1354 ) tự là Thăng Phủ ,hiệu Đôn Tẩu , người xã phúc thành , huyện Yên Ninh ( nay thuộc thị xã Ninh Bình ). Ông có tài và học giỏi , từng là môn khách của Trần Hưng Đạo , sau làm quan từ triều Trần Anh Tông đến triều Trần Dụ Tông , lúc chết được thăng tước Thái Bảo , Thái phó và được thờ ở Văn Miếu ( Thăng Long ).
- Tính tình cương trực , học vấn uyên thâm , sinh thời được các vua Trần tin cậy , nhân dân kính trọng.
- Tác phẩm: còn 4 bài thơ và 3 bài văn , trong đó có Bặch Đằng giang phú nổi tiếng nhất.

2. Hoàn cảnh sáng tác:

- Bạch Đằng là một nhánh sông Kinh Thầy , nơi ghi dấu những chiến công hào hùng và trở thành thi tứ cho nhiều tác phẩm văn học.
- Ước mơ đoán viết vào khoảng 50 năm sau cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông thắng lợi.

3. Thể loại:

- Viết theo thể phú , nguyên tác bằng chữ Hán.
- Phú là thể hiện văn vần , dùng để tả cảnh vật , phong tục , tập quán , tính tình .Hai loại phú phổ biến là phú cổ thể và phú Đường Luật .Phú cổ thể vốn có từ trước đời nhà Đường , có vần , không đối , như bài ca dài , hoặc bài văn xuôi có vần , vì thế nên còn gọi là phú lưu thuỷ ( nước chẩy ).Còn Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường , có vần , đối , theo luật bằng trắc khá chặt chẽ .Bài phú của Trương Hán Siêu viết theo lối cổ thể .Bản dịch theo nguyên điệu , trừ hai bài ca cuối cùng chuyển sang thể lục bát .

4. Câu tứ:

- Dùng hình thức đối đáp giữa khách và bô lão. Khách ở đây chính là tác giả.

5.Phân tích:
5.1 Giới thiệu người và hoàn cảnh:

- Người:
+ Khách : là nhân vật do tác giả sáng tạo nên , nhưng ở đây cũng chính là tác giả .Trong thể phú , thường có nhân vật khách để kể chuyện cho hấp dẫn.
+ Khách đến những địa danh nổi tiếng
Tính ước lệ -> người có lòng yêu thiên nhiên , thú du ngoạn , tâm hồn khoáng đạt , chí khí lớn lao , mang tráng chí bốn phương .
Bặch Đằng ->tả thực .Không chỉ có thú tiêu dao mà còn là người yêu lịch sủ dân tộc ,học ltheo Tử Trường xưa.
Giọng văn thanh thản , phơi phới.
=>Hình tượng nhân vật khách : tự khẳng định mình là một hồn thơ,một khách hải hồ đồng thời là một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.

- Cảnh:
+ Sông Bặch Đằng hùng vĩ , hoành tráng:
Bát ngát sóng kinh muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một mầu.
Nước trời : một sắc.
Phong cảch : ba thu.
+ Nhưng lại ảm đạm , hiu hắt:
Bò lau san sát,
Bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
+ Qua cách nhìn cảnh vật , ta đọc tâm trạng của khách vừa vui , vừa buồn , vừa tự hào , vừa tiếc nhớ .Vui với cảnh sông nước mênh mồn , có thuyền bè xuôi ngược .Buồn đau,nuối tiếc vì thấy cảnh chiến trường xưa ,chiến thắng oanh liệt còn hừng hực là thế , mà nay sao trơ trọi , hoang vu , hiu quạnh là vậy .Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết.Bởi thế:
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
+ Giọng điệu trầm lặng .Một tâm hồn phóng túng , mạnh mẽ cũng trở nên sững sờ , buồn tiếc.
=>Nhân vật khách , tuy có tính chất công thức của thể phú , đã được Trương Hán Siêu thổi vào , trở nên sinh động .Nhân vật khách chính là cái tôi của tác giả , một kẻ sĩ nặng lòng với đất nước, với lịch sửdân tộc.

5.2 Lời các bô lão:

- Bô lão:
+ Hình ảnh tập thể , người dân địa phương , có thể từng chứng kiến hoặc tham gia các trận chiến xưa.
+ Xuất hiện như một sự hô ứng có tính lịch đại,có thể nhằm tạo không khí đối đáp tự nhiên,kể cho khạch nghe về những trận thuỷ chiến.
+ Thái độ các bô lã nhiệt tình hiếu khách.
- Trận Bặch Đằng qua lời kể các bô lão:
+Lời kể được sắp xếp tho dòng hồi tưởng.
+Giới thiệu hai trận đánh.
+Tả lại cnảh chiến trận,chủ yếu là chiến tích năm 1288.
Lúc đầu ra quân trong thế trận giằng co , ngang sức ngang tài , bất phân thắng bại .Cuộc chiến diễn ra ác liệt , đến nỗi : Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ / Bầu trời đất sắp đổi.
Câu văn sử dụng biện pháp đối lập báo hiệu một trận đánh kinh thiên động địa .
So sánh trận chiến thắng Bạch Đằng với trận Xích Bích , Hợp Phì ( của Trung Hoa ) với niềm tự hào dân tộc.
Nghệ thuật : lời kể súc tích , đầy cảm hứng , có hồi hộp nhưng sảng khoái của người trong cuộc .Lời kể , lúc dùng câu ngắn gợi không khí gấp gáp căng thẳng , lúc câu dài gợi không khí trnag nghiêm dõng dạc.
Cách miêu tả ngắn gọn mà vẫn cụ thể , tỉ mỉ khiến người đọc tưởng như cuộc chiến đang diễn ra trong hiện tại.

- Lời bình luận các bô lão:

+Suy nghĩ về nỗi nhục của kẻ thù .

+Suy ngẫm về nguyên nhân ta thắng , địch thua .Ta chiến thắng vì ta chiến đấu bảo vệ non sông , chiến đấu cho chính nghĩa .Trời lại cho nơi đất hiểm .Nhưng điều quyết định là ta có nhân tài.
Từ khi có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc điện an.
Nhấn mạnh yếu tố con người là cảm hứng mang tính nhân văn , có tầm triết lý sâu sắc. Lời bình luận vừa hào hùng sâu lắng thiêng liêng.

+Tâm trạng của các bô lão khi nhắc đến người xưa , cũng buồn thương , tiếc nuối :
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người cưa chừ lệ chan.
+Lời ca của bô lão là lời tuyên ngôn sảng khoái , dõng dạc về chân lý: nhưng kẻ nghĩa tiêu vong , người anh hùng sẽ bất tử như sự tồn tại vĩnh hằng của dòng sông lịch sử.

5.3 Lời ca của khách:
- Ca ngợi công đức hai vị vua Trần ( Trần Thánh Tông , Trần Nhân Tông) đem lại thái bình cho đất nước.
- Bày tỏ khát vọng hoà bình muôn thuở.
- Ở câu cuối , khách vừa biện luận , vừa khẳng định chân lý : sức mạnh chính nghĩa , đạo đức dân tộc là yếu tố quyết định chiến thắng.
- Lời ca của khách chỉ có bốn câu mà ý tưởng sâu xa.Giọng văn phơi phới , hân hoan.

6.Chủ đề:
Qua việc tái hiện không khí chiến thắng hào hùng trên sông Bặch Đằng , tác phẩm toát lên niềm tự hào dân tộc - tự hào về truyền thống anh hùng bất khất , tinh thần chuộng đạo lý của dân tộc , vẻ đẹp tâm hồn con người Đại Việt

Bài giải của bạn: tadieuanh 11:04:13 Ngày 11-01-2008

Sông Đằng một dải dài ghê

Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông

Những người bất nghĩa tiêu vong

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

* 4 câu thơ tác giả đã khẳng định sự trường tồn vĩnh cửa của dòng sông Bạch Đằng và những chiến công lẫy lừng đã gắn kết trên dòng sông này. Qua đó khẳng định một triết lí : " bất nghĩa thì tiêu vong, anh hùng thì lưu danh muôn thuở"

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thanh bình

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.

* Người khách nuối tiếc ca ngợi về non sông hùng vĩ hoành tráng về vai trò của con người và đặc biệt là hai vị vua tài đức Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông trong công cuộc giữ nước.

Tran Quynh Nhung
Tran Quynh Nhung
Trả lời 13 năm trước

Tác giả

Trương Hán Siêu (?-1354), tự là Thăng Phủ, quê ở Ninh Bình. Vốn là môn khách của Hưng Đạo Vương. Dưới triều Trần Anh Tông, Trần Dụ Tông, ông làm quan to trong triều. Lúc mất được truy tặng Thái bảo, được thờ ở Văn Miếu.

Là bậc danh sĩ tài cao học rộng. Hiện còn để lại 4 bài thơ, 3 bài văn, nổi tiếng nhất là "Bạch Đằng giang phú".

"Phú" là gì?

"Phú" nghĩa đen là bày tỏ, miêu tả, là thể văn xuôi có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục, tính tình. Phú được chia làm hai loại:

1. Phú cổ thể gọi là Phú lưu thuỷ, như một bài ca, hoặc một bài văn xuôi dài mà có vần.

2. Phú Đường luật là thể phú được đặt ra từ đời Đường vừa có vần vừa có đối, có luật bằng trắc nghiêm nhặt.

Bố cục một bài phú gồm có 6 phần: 1, Lung; 2, Biện nguyên; 3, Thích thực; 4, Phu diễn; 5, Nghị luận; 6, Kết.

Cách đặt câu trong một bài phú gồm có các kiểu sau: Câu tứ tự, câu bát tự, câu song quan, câu cách cú, câu gối hạc.

Có hay chữ (tài giỏi), có tài hoa mới viết được phú. Cần hiểu thi pháp về phú mới cảm nhận được cái hay của văn chương, tư tưởng của phú và văn tế

Chủ đề

"Bạch Đằng giang phú" đã ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ từng ghi bao chiến công oanh liệt của tổ tiên, biểu lộ niềm tự hào về đất nước ta có "đất hiểm" có lắm anh hùng hào kiệt, để đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập thanh bình bền vững.

Những nét lớn cần biết

1. "Bạch Đằng giang phú" được viết theo thể phú lưu thuỷ, có vần, tác giả sử dụng phép đối nhiều chỗ. "Bài ca cuối bài phú" là một sự sáng tạo. Nhân vật "khách" là nhân vật trữ tình - chính là nhà thơ.

2. Đoạn tả cảnh sắc Bạch Đằng giang hùng vĩ tráng lệ bằng cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng lịch sử là đoạn hay nhất:

"Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một mầu
Nước trời: một sắc
Phong cảnh: ba thu
Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gẫy
Gò đầy xương khô..."

3. Bô lão xuất hiện cuộc đối thoại giữa "khách" và "bô lão" làm cho giọng điệu bài phú từ cảm xúc trữ tình chuyển thành anh hùng ca. Nhà thơ tái hiện lại cảnh tượng chiến trường một thời oanh liệt - trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng:

"Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã.
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.
Đương khi ấy
Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới.
Tì hổ ba quân.
Giáo gươm sáng chói
Trận đánh thư hùng chửa phân,
Chiến luỹ Bắc, Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi
(...) Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi"

4. Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng khác nào trận Xích Bích, trận Hợp Phì trong Bắc sử. Nhà thơ tự hào khẳng định và ngợi ca:

"Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an...
(...) Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhan ..."

5. Bài ca về sông Bạch Đằng

Sông Bạch Đằng hùng vĩ, là mồ chôn quân xâm lược:

"Sông Đằng một giải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông."
Bài học giữ nước là bài học "đức cao" đó là lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết chống xâm lăng. Ý tưởng sâu sắc, tiến bộ:

"Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao."

Tổng kết

"Bạch Đằng giang phú" là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Ngôn ngữ tráng lệ. Dòng sông hùng vĩ, hiểm trở. Dân tộc anh hùng có nhiều nhân tài hào kiệt. Nhà thơ thể hiện những tư tưởng sâu sắc tiến bộ về vinh và nhục, thắng và bại, tiêu vong và trường tồn, đất hiểm và đức cao... Đó là bài học lịch sử sáng giá đến muôn đời.

Có những câu văn như một châm ngôn khẳng định một chân lí lịch sử.

"Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh"