Kinh nghiệm làm bài trắc nghiệm Anh văn đạt kết quả cao

Khi kiểm tra, tất nhiên chúng ta không được phép mang từ điển vào rồi. Do vậy, hãy tự phát âm thử xem nhé. Không chừng bằng kiến thức bạn học được trên lớp, cộng với kĩ năng nói được rèn luyện thường xuyên của bạn, dần dần, bạn sẽ phát hiện ra từ nào phát âm khác với những từ còn lại ngay.

Riêng về phần âm nhấn, cố gắng nhớ lại cách phát âm trong băng, hoặc cách phát âm của thầy cô, sau đó tự mình dựa vào cách đọc ấy mà chọn lựa đáp án.

Luôn lắng nghe thật kĩ cách phát âm của thầy cô, bạn bè và trên băng cát-sét


Lắng nghe cách phát âm của của thầy cô, cố gắng khắc ghi lại trong đầu thì trình độ nói của bạn sẽ được nâng lên đáng kể. Chưa hết, nếu chú ý cách phát âm của bạn bè, bạn sẽ thấy họ có cách phát âm khác mình, từ đó bạn sẽ có thêm kinh nghiệm để khắc phục nhược điểm.
Trên các từ điển điện tử, các phần mềm tiếng Anh trên net, hoặc băng cát-sét luôn có phần phát âm, hãy nghe đi nghe lại các từ có cùng một âm nhấn, hoặc giống nhau ở nguyên âm,phụ âm, bạn sẽ phân loại được dạng từ.


Trước hết bạn hãy phân loại các cách đọc nguyên âm, phụ âm khác nhau. Ví dụ, đọc nguyên âm trước, sau đó tìm từ có nguyên âm ấy đọc lạo nhiều lần. Nhớ thường xuyên so sánh và phân biệt các nguyên âm gần giống nhau thường làm bạn lẫn lộn.


Sau mỗi từ vựng bạn vừa học, hãy tra từ điển và ghi lại cách phát âm của nó. Học từ vựng và học luôn cả phần phát âm, điều này sẽ giúp bạn đáng kể trong việc nâng cao trình độ nói và vốn từ vựng của mình.
Còn nếu bạn học không vô? Không sao. Khi phát âm loại từ đó, hãy liên tưởng tới một từ loại có cách phát âm tương tự làm chuẩn hoặc nhớ tới mẫu kí tự phát âm.
Bạn có thể tự đặt tên cho mẫu kí tự đó để dễ nhớ. Ví dụ: "u" chậu, "e" bướm, "e" ngược, "I" dài… Như vậy, bạn sẽ dễ thuộc bài hơn.


Ngay cả khi tra từ điển hoặc kiểm tra, biện pháp loại trừ cũng giúp bạn tiết kiệm được cả khối thời gian đấy.Ví dụ, bạn phát hiện ra trong 4 đáp án, có một từ phát âm khác hai từ kia thì còn chần chờ gì nữa, đánh vào từ duy nhất ấy nào. Bạn không cần xét từ thứ tư nữa, đúng không? Và nếu tra từ điển thì trước hết hãy tra từ mà bạn cảm thấy nghi ngờ trước đã.
Nếu sự nghi ngờ của bạn là chính xác thì bạn không cần phải tra ba từ còn lại. Nếu nghi ngờ của bạn là sai thì tiếp tục với đáp án trong diện tình nghi thứ 2, cứ như vậy, dần dần bạn sẽ có được đáp án đúng.



Kết quả thu được khả quan lắm đấy, 65% cơ.

Hiệu quả là 70% đấy nhé!

Bạn không cần thiết phải có một chất giọng "thiên phú" như người bản xứ,chỉ cần bạn phân biệt được các cách đọc nguyên âm, phụ âm thì tỉ lệ đạt điểm cao là 80% rồi.

Thực hiện phương pháp này, hiệu quả là 60%.

Tỉ lệ thành công khi áp dụng phương pháp này là 40%.

1. Hãy tự mình phát âm
Kết hợp cả năm phương pháp còn lại, tin rằng khả năng phân biệt từ cũng như dấu nhấn của các bạn sẽ là 100% đấy. Áp dụng hử xem!
5. Dùng biện pháp loại trừ
4. Thường xuyên tra từ điển
3. Đi từ khái quát đến cụ thể

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em học sinh và phụ huynh học sinh có được nguồn thông tin tuyển sinh hàng năm chính thống, tránh trường hợp tra cứu từ các nguồn thông tin không chính thống gây sai lệch: Tư vấn tuyển sinh – VTV2 – Đài Truyền hình Việt Nam triển khai thêm tổng đài 1900 6669 giải đáp tất cả các vấn đề liên quan đến Tuyển sinh và tra cứu điểm thi.

Kỳ thi Tốt nghiệp PTTH

  • Chờ/tra cứu kết quả điểm thi, soạn tin: DTN  SBD  Mã tỉnh  gửi tới  8749

                                                                  DTN  SBD  Mã tỉnh  gửi tới  8732

                                                                

  • Tra cứu đáp án, soạn tin:                    DAN  Môn thi  Mã đề  gửi tới  8749

                                                                 DAN  Môn thi  Mã đề  gửi tới  8732

                                                                 

 

Kỳ thi Đại học – Cao đẳng

  • Chờ/tra cứu kết quả điểm thi, soạn tin:     DTH  SBD  gửi tới  8749

                                                                       DTH  SBD  gửi tới  8732

  • Tra cứu điểm chuẩn, soạn tin:              DCH  Mã trường Mã ngành  gửi tới  8749

                                                                  DCH  Mã trường Mã ngành  gửi tới  8732

  • Tra cứu đáp án, soạn tin:                     DAH  Khối thi Môn thi  Mã đề gửi tới  8749

                                                                  DAH  Khối thi Môn thi  Mã đề gửi tới  8732

                                                                

 

Các bạn cũng có thể tham khảo thông tin tại website: http://tradiemthi.vn/

Chúng tôi luôn đồng hành cùng các sĩ tử. Chúc các em một mùa thi thắng lợi!

Huyentrinh
Huyentrinh
Trả lời 13 năm trước

Tuy nhiên, căn cứ yêu cầu về nội dung, cấu trúc của các đề thi có thể khẳng định để làm bài tốt, thí sinh phải có đủ kiến thức về ngữ âm và âm vị học, từ vựng, ngữ pháp (cú pháp) và kỹ năng đọc hiểu.

Dưới đây là nội dung tổng kết những kiến thức và kỹ năng được yêu cầu trong các đề thi, sau đó gợi ý cách xử lý một số mục cụ thể. Hi vọng qua những phần tổng kết và gợi ý về cách làm bài, các em có thể hiểu thêm kiến thức cần chuẩn bị cho mình trước kỳ thi để từ đó xây dựng những chiến lược học tập, trang bị kiến thức một cách hiệu quả và cách làm bài phù hợp, đạt kết quả cao.

Như trên đã nói, một bài thi tốt nghiệp THPT và một bài thi tuyển sinh vào các trường đh, cđ đều yêu cầu thí sinh phải có đủ kiến thức về ngữ âm và âm vị, từ vựng và ngữ pháp, các kỹ năng đọc hiểu. Chi tiết sẽ được trình bày trong những mục dưới đây.

1. Thế nào là có đủ kiến thức về ngữ âm và âm vị học tiếng Anh?

Có đủ kiến thức về ngữ âm và âm vị học tiếng Anh bao gồm việc phát âm đúng các âm riêng lẻ, trong từ, cụm từ và câu; hiểu được rằng hệ thống âm vị học tiếng Anh bao gồm các nguyên âm đơn, nguyên âm kép, phụ âm đơn, phụ âm, tổ hợp phụ âm, các chữ viết thể hiện các âm vị đó; và quan trọng hơn phải phát âm đúng được những âm đó khi chúng đứng riêng lẻ, trong tổ hợp, trong từ, trong câu, và phải biết đánh trọng âm của các từ đa âm tiết.

2. Thế nào là đủ kiến thức về từ vựng?

Có đủ kiến thức về từ vựng có nghĩa là các em phải nhớ được một lượng từ vựng cần thiết, cả hình thức âm thanh, hình thức chữ viết và nghĩa cơ bản (thường là nghĩa 1 trong từ điển) đủ để hiểu bài và làm bài; phải có kiến thức cơ bản về hệ thống từ vựng tiếng Anh bao gồm các loại như danh từ, động từ, tính từ, trạng từ, giới từ, mạo từ, đại từ, liên từ, thán từ, phải hiểu được những đặc điểm cơ bản của từng loại từ này.

2.1. Danh từ tiếng Anh

Danh từ tiếng Anh có số ít và số nhiều (ví dụ: book - books), đếm được (ví dụ: book) và không đếm được (ví dụ: water). Danh từ tiếng Anh có cấu tạo số nhiều từ số ít theo qui tắc (ví dụ: table - tables, pen - pens), nhưng cũng có cấu tạo số nhiều từ số ít không theo qui tắc (ví dụ: child - children, man - men), có hình thức số ít nhưng lại sử dụng như số nhiều (ví dụ: people, police), hoặc hình thức số nhiều nhưng sử dụng như số ít (ví dụ: physics, mumps). Ngoài ra còn có sở hữu cách của danh từ (ví dụ: our teachers books, Alices car), và danh từ ghép (ví dụ: swimming pool, river bank)

2.2. Động từ tiếng Anh

Động từ tiếng Anh có năm hình thức: hình thức nguyên thể - hình thức được cho là nguyên mẫu của động từ (ví dụ: go, come, play), hình thức nguyên thể với to (ví dụ: to go, to play), hình thức quá khứ (ví dụ: walked, played) thể hiện ý nghĩa quá khứ, hình thức phân từ 2 (ví dụ: given, written) thể hiện ý nghĩa hoàn thành, và hình thức với -ing thể hiện ý nghĩa đang diễn ra.

Động từ tiếng Anh thể hiện thời gian qua việc sử dụng các thì (tenses) bao gồm hiện tại, quá khứ và tương lai. Với hiện tại, động từ tiếng Anh có bốn thì: (1) thì hiện tại đơn chỉ hành động thường xuyên xảy ra trong hiện tại (ví dụ: I go to school everyday; She speaks English very well); (2) thì hiện tại tiếp diễn chỉ hành động xảy ra ở thời điểm nói trong hiện tại (ví dụ: We are learning English; She is singing in the next room); (3) thì hiện tại hoàn thành chỉ một hành động xảy ra trong quá khứ và còn kết quả liên quan đến hiện tại (ví dụ: Ive read this book; They have finished their homework); và (4) thì hiện tại hoàn thành tiếp diễn chỉ một hành động bắt đầu từ một thời điểm nào đó trong quá khứ và đến hiện tại nó vẫn đang diễn ra (ví dụ: Weve been learning English for 6 years; Hoa has been reading the book for two hours).

Với quá khứ, động từ tiếng Anh có bốn thì: (1) thì quá khứ đơn chỉ hành động đã xảy ra trong quá khứ (ví dụ: I often went to school early when I was young); (2) thì quá khứ tiếp diễn chỉ hành động đang diễn ra tại một thời điểm xác định trong quá khứ (ví dụ: I was reading a book when she came); (3) thì quá khứ hoàn thành chỉ hành động đã hoàn thành trước một thời điểm xác định trong quá khứ (ví dụ: I had learnt English for three year before I turned to learn Japanese); và (4) thì quá khứ hoàn thành tiếp diễn chỉ hành động bắt đầu trước một thời điểm xác định trong quá khứ kéo dài đến thời điểm quá khứ ấy (ví dụ: I had been reading this book for three hours when she came).

Với tương lai, động từ tiếng Anh không biến hình để diễn đạt ý nghĩa này; thay vào đó nó sử dụng hai trợ động từ shall và will. Thông thường shall đi với đại từ nhân xưng ở hai ngôi I và we, will đi với các đại từ nhân xưng ở các ngôi còn lại you, she, he, it và they (tuy nhiên xu hướng hiện nay là sử dụng will cho tất cả các ngôi).

Theo đó, ta có (1) thì tương lai đơn chỉ hành động thường xảy ra trong tương lai (ví dụ: I shall go to school early); (2) thì tương lai tiếp diễn chỉ hành động xảy ra tại một thời điểm tiếp diễn trong tương lai (ví dụ: at this time tomorrow, I shall be learning English); (3) thì tương lai hoàn thành thể hiện hành động sẽ hoàn thành trước một thời điểm xác định trong tương lai (ví dụ: They will have finished their work by this time tomorrow); và (4) thì tương lai hoàn thành tiếp diễn thể hiện hành động bắt đầu trước một thời điểm xác định trong tương lai, kéo dài đến thời điểm tương lai ấy và có thể vẫn tiếp diễn (ví dụ: We shall have been learning English for two hours when you come). Ngoài ra để diễn tả tương lai gần có kế hoạch (near future plan) ta còn sử dụng cấu trúc be going to + V (ví dụ: We are going to visit our grandparents next weekend).

Một số gợi ý cụ thể trong khi làm bài thi

(tiếp theo)

TT - Khi đã có tương đối đầy đủ kiến thức về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp (cú pháp) và kỹ năng đọc hiểu thì điều tối quan trọng lúc này là chiến lược làm bài. Đối với những mục hỏi về kiến thức thì các em buộc phải có kiến thức về nội dung đó.

Đối với những mục yêu cầu kiến thức và kỹ năng thì chiến lược làm bài thi rất quan trọng. Với đọc hiểu, nhiều thí sinh không xây dựng cho mình một chiến lược trả lời có hiệu quả, cho nên khi được yêu cầu các em thường bắt đầu cắm đầu cắm cổ đọc cả đoạn văn, thậm chí có em đọc đi đọc lại cả đoạn văn ấy, khi thấy một số từ mình không biết thì tỏ ra hoảng loạn, lúng túng, và kết quả trả lời dễ bị sai.

Lưu ý: Trong khi trả lời các em sẽ trải qua cảm giác không chắc chắn, không biết chọn phương án nào là đúng. Trong trường hợp này, công việc duy nhất có thể làm là cứ chọn theo cảm giác ban đầu. Theo kinh nghiệm, lựa chọn phương án theo cảm giác ban đầu thường cho câu trả lời đúng! Ngoài ra, đối với dạng bài thi trắc nghiệm, các em cần luyện tập khả năng phán đoán và loại trừ những phương án sai dựa vào kiến thức và sự suy diễn logic của mình. Nếu các em có thể loại trừ được ba phương án sai cho mỗi câu hỏi thì phương án còn lại xác suất đúng rất cao.

Đối với phần chọn phương án đúng (ứng với A hoặc B, C, D) để hoàn thành mỗi câu sau như mục 6, đề thi tốt nghiệp THPT năm 2007 lần 1, các em cần phải lưu ý rằng mục này kiểm tra kiến thức về câu phức và câu ghép, cho nên các em cần phải lưu ý những điểm sau đây:

- Khi câu là câu phức hoặc ghép thì chủ ngữ có thể không xuất hiện ở mệnh đề phụ (ví dụ: when (0) walking in the rain, I saw a big frog); hoặc có thể xuất hiện ở cả hai mệnh đề (ví dụ: when I was walking in the rain, I saw a big frog).

- Câu phức có thể là câu có mệnh đề phụ chỉ thời gian, chỉ nguyên nhân, kết quả, chỉ mục đích..., nó cũng có thể là câu có mệnh đề chỉ điều kiện và một khi chỉ điều kiện thì nó chỉ có thể là câu điều kiện loại 1, câu điều kiện loại 2 hoặc câu điều kiện loại 3, nhưng cũng có thể là sự kết hợp loại 2 và 3 (mixed type).

fhgkjhljjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjj
fhgkjhljjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjjj
Trả lời 13 năm trước

A. NHỮNG ĐIỂM CHUNG CẦN LƯU Ý

Như đã trình bày trong các phần ở trên, để làm tốt bài thi trắc nghiệm, thí sinh cần học tất cả tất cả kiến thức cơ bản về ngôn ngữ và vận chúng chúng một cách thành thạo trong các nội dung thi khác nhau. Các câu hỏi trong bài thi trắc nghiệm (40-50 câu cho bài thi tốt nghiệp và 80-100 câu cho bài thi tuyển sinh) đề cập đến các nội dung, kiến thức khác nhau và thời gian làm bài cũng được tính toán chặt chẽ nên thí sinh không nên "học tủ" hoặc nghĩ đến khả năng quay cóp khi làm bài.

Các nội dung kiến thức về ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng ,v.v... trình bày trong các cuốn sách của chương trình THPT đã được sắp xếp trong một hệ thống hoàn chỉnh. Nếu học hết các nội dung trong sách, trả lời hết các câu hỏi và giải hết các bài tập trong sách giáo khoa và sách bài tập là thí sinh đã có thể đạt được điểm tốt trong khi làm bài thi trắc nghiệm.

Thường xuyên rèn luyện nâng cao kỹ năng thực hiện bài thi trắc nghiệm. Bài thi đuợc thiết kế có phần khác với kiểu tự luận quen thuộc nên thí sinh cần rèn luyện thói quen đọc và hiểu đúng yêu cầu của câu hỏi và nội dung của phương án trả lời.

Tập thành thạo cách tô đậm các ô trả lời bằng bút chì, tô làm sao cho chủ độ đậm, vừa kìn vòng tròn, nhanh. Ngoài ra cũng cần rèn luyện kỹ năng tẩy các phương án trả lời sai, tẩy sách mà không làm rách tờ giấy trả lời (answer sheet). Trên phiếu trả lời trắc nghiệm, chỉ được viết một thứ mực không phải là mực đỏ và tô chì đen ở các ô tròn, chỉ được tô bằng bút chì không được tô bằng bút bi, bút mực. Khi tô, phải tô đậm và lấp kín diện tích cả ô, không gạch chộo hoặc chỉ dùng ký hiệu đánh dấu. Để cho bài làm được chấm bằng máy, thí sinh cần phải chú ý giữ phiếu trả lời sạch sẽ, không làm rách, làm nhàu hoặc có vết gấp, quăn một Đồng thời thí sinh cũng phải lưu ý không được tự ý viết thêm gì ngoài những mục cần khai trên phiếu trả lời vì bài làm sẽ bị coi là đánh dấu, phạm qui và không được chấm điểm.

Thí sinh nên luyện tập làm các bài thi trắc nghiệm mẫu trong điều kiện như thật, theo đúng thời gian quy định. Sau khi làm xong toàn bài mới nên kiểm tra trong phần đáp án. Phải thật lưu ý đến các câu mình làm chưa đúng, và tìm hiểu nguyên nhân tại sao chưa đúng. Qua đó thấy được điểm yếu của mình để tập trung rèn luyện cho có trọng tâm.

Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cần thiết để làm bài. Ngoài các đồ dùng cần thiết cho một bài thi thông thường, đối với thi trắc nghiệm cần chuẩn bị thêm từ 3-5 bút chì màu đen đã gọt sẵn. Đừng quên mang theo tẩy chì và dụng cụ gọt bút chì.

Theo kinh nghiệm của một số chuyên gia về thi trắc nghiệm, thí sinh cần lưu ý làm đến câu trắc nghiệm nào thì dùng bút chì tô ngay ô tròn trả lời trên phiếu, ứng với câu trắc nghiệm đó. Tránh làm toàn bộ các câu của đề thi trên giấy nháp hoặc trên đề thi rồi mới tô vào phiếu vì dễ bị thiếu thời gian. Không nên dừng quá lâu trước 1 câu trắc nghiệm nào đó.

Tóm lại thí sinh cần lưu tâm một số yếu tố mang tính kỹ thuật sau đây khi làm bài

· Làm đến câu trắc nghiệm nào thí sinh phải dùng bút chì tô ngay ô tròn trả lời trên phiếu trả lời, ứng với câu trắc nghiệm đó, tránh làm toàn bộ các câu của đề thi trên giấy nháp hoặc trên đề thi rồi mới tô vào phiếu trả lời vì dễ bị thiếu thời gian.

· Tránh việc chỉ trả lời trên đề thi hoặc giấy nháp mà quên tô trên phiếu trả lời.

· Chỉ tô các ô tròn bằng bút chì. Trong trường hợp tô nhầm hoặc muốn thay đổi câu trả lời, thí sinh dùng tẩy tẩy thật sạch chì ở ô cũ, rồi tô kín ô khác mà mình mới lựa chọn.

· Số thứ tự câu trả lời mà thí sinh làm trên phiếu trả lời phải trùng với số thứ tự câu hỏi trắc nghiệm trong đề thi, chú ý tránh trường hợp trả lời câu này nhưng tô vào hàng của câu khác trên phiếu trả lời.

· Tránh việc tô hai ô tròn trở lên cho một câu trắc nghiệm vì máy sẽ không chấm, câu đó sẽ không được tính điểm.

· Không nên dừng quá lâu trước một câu trắc nghiệm nào đó. Nếu không làm được câu này, thí sinh nên tạm thời bỏ qua để làm câu khác. Cuối giờ có thể quay trở lại làm câu đã bỏ qua nếu còn thời gian.

B. MỘT SỐ CÁCH GIẢI BÀI TẬP CỤ THỂ

Trong phần này chúng tôi sẽ trình bày một số gợi ý cách làm các câu hỏi trắc nghiệm dưới dạng câu đơn (single sentence) và dưới dạng một bài đọc (a text) và phần nhận diện lỗi (error identification)

1. Các câu hỏi trắc nghiệm dưới dạng câu đơn.

Trong khi luyện cũng như trong phòng thi, thí sinh cần lưu tâm đến các đặc điểm sau của các loại câu này:

Thứ nhất, các câu này kiểm tra tương đối toàn diện kiến thức ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng, vv) và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ (viết và đọc). Vì thế thí sinh cần đọc kỹ yêu cầu làm bài và xác định nghe xem kiến thức mà người thiết kế đề thi muốn kiểm tra là gì

Thứ hai, cần đọc hết câu dẫn và cả bốn lựa chọn để xác định xem:

từ loại cần điền vào chỗ trống là danh từ, động từ, hay tính từ ,vv

nghĩa của từ cần điền vào chỗ trống cho phù hợp với nghĩa của toàn câu

dạng thức ngữ pháp của từ cần phải điền vào chỗ trống.

Chúng ta hãy cùng phân tích một ví dụ câu sau:

Tony was............. when he passed the entrance exam.

A. tired B. pleased C. like D. pleasure

Trong câu trên, chúng ta thấy từ cần điền vào chỗ trống phải là một tính từ vì từ này đi sau động từ "to be". Vậy ta loại được các phương án C (động từ) và D (danh từ). Trong số hai tính từ còn lại (A và B), thì đáp án B (pleased) là hợp nghĩa trong văn cảnh của câu.

Thứ ba, kể cả khi đã "nhìn thấy" từ đúng cho chỗ trống, thí sinh cần phải đọc cả bốn phương án đã cho vì yêu cầu của bài có thể, và thường là chọn phương án đúng nhất. Trong số các phương án đã cho có thể có tới hơn một phương án đúng, nhưng trong bố cảnh của câu đó, chỉ có một phương án đúng nhất. Đặc biệt là không nên dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, sau đó lựa chọn phương án, ví dụ trong câu sau:

Mrs. Lan has been elected to be the _____ of the hotel.

A. director B. manager C. boss D. chair

Trong câu này, chúng ta thấy cả bốn phương án đều có nghĩa là người đứng đầu (giám đốc, người quản lý, sếp, chủ tịch) của một đơn vị, cơ quan, tổ chức. Trong câu trên, nhiều thí sinh cho rằng từ "boss" là tốt nhất vì nó bao hàm nghĩa chung nhất. Phương án này cũng đúng, nhưng trong bối cảnh của câu này thì phương án "manager" là đúng nhất vì đây là người quản lý của một khách sạn "a hotel".

Thứ tư, kể cả khi không quyết định được phương án nào là phương án đúng, thí sinh cũng không nên quá lo sợ mà hãy bình tĩnh loại bỏ những phương án có khả năng bị sai nhiều. Thông thường người ra đề thi đưa vào hai phương án "chắc chắn sai". Còn trong hai phương án còn lại, hãy lựa chọn phương án mình cảm thấy là đúng hơn. Tất nhiên cảm giác về ngôn ngữ của chúng ta cũng có thể sai, nhưng lựa chọn một trong hai phương án còn lại vẫn tốt hơn là làm mò hoàn toàn, ví dụ

It took Lan a long time to find the pair of shoes that .............. her blue trouserss.

A. liked B. fitted C. agreed D. matched

Trong số các phương án trên, chúng ta có thể loại được ngay các phương án A và C vì nghĩa không phù hợp. Nếu không phân biệt được sự khác nhau giữa hai đáp án B và D, thí sinh nên theo cảm tính của mình lựa chọn một trong hai, và khả năng đúng của chúng ta sẽ là 50/50 chứ không phải là 25/100. Trong trường hợp trên phương án D là đúng vì nghĩa của câu là hợp về mầu sắc.

Cuối cùng là trong bất kỳ trường hợp nào cũng không nên bỏ một câu nào vì có nếu chọn sai cũng không bị trừ điểm.

2. Bài đọc hiểu trắc nghiệm (multiple-choice comprehension questions).

Bài tập đọc hiểu nhằm kiểm tra khả năng đọc bằng mắt lấy thông tin để lựa chọn phương án đúng cho các câu hỏi về bài đọc đó. Có những yêu cầu lấy thông tin chính (main idea), lấy thông tin chi tiết (details). Thông thường các câu hỏi yêu cầu thí sinh chọn đúng thông tin về dữ kiện và số liệu (facts and data) có trong bài. Cũng có thể có những câu khó hơn, yêu cầu thí sinh phải hiểu được ẩn ý (implied idea) hoặc ý kiến, quan điểm (opinion) của tác giả đối với vấn đề được nêu trong bài đọc. Tuy nhiên trong các kỳ thi gần đây, chủ yếu các câu hỏi của phần này chỉ yêu cầu thí sinh xác định đúng thông tin về dữ kiện và số liệu.

Trong bài thi trắc nghiệm, hai loại hình đọc hiểu phổ biến nhất là đọc và lựa chọn từ chính xác nhất để điền vào chỗ trống, và đọc sau đó lựa chọn phương án trả lời đúng nhất cho một số câu hỏi về bài đọc như minh họa trong phần 2 ở trên.

Có nhiều quan điểm khác nhau về cách làm bài này. Về cơ bản thì các chuyên gia về thi cử đưa ra hai cách chính. Cách thứ nhất là đọc các câu hỏi trước sau đó đọc bài để tìm thông tin trả lời các câu hỏi đó. Cách này thường dùng cho các bài đọc dài, ví dụ trong các bài thi đọc hiểu của IELTS. Cách thứ hai là đọc bài trước, sau đó đọc các câu hỏi và quay trở lại bài để tìm thông tin trả lời. Cụ thể các bước thực hiện cách làm này như sau:

Đọc nhanh một lượt từ đầu đến cuối. Mục đích của lần đọc này là nằm được chủ đề của bài viết và nội dung sơ lược của nó. Trong khi đọc, thí sinh bỏ qua mọi từ mới. Thậm chí nếu không hiểu cả một câu nào đó cũng có thể bỏ qua để đọc tiếp.

Đọc kỹ câu hỏi và tất cả các phương án A, B, C, D, sau đó xác định xem chỗ nào trong bài đọc có thông tin giúp lựa chọn phương án đúng nhất. Cần chú trọng đến các từ đồng nghĩa giữa bài đọc và các phương án

Khi lựa chọn câu trả lời, luôn luôn kiểm tra lại bước 2 ở trên để đảm bảo chắc chắn là đã xác định đúng chỗ có thông tin cho câu hỏi mình đang trả lời.

Để chọn được phương án trả lời đúng nhất, trước hết nên loại bỏ phương án chắc chắn sai (về số liệu, dữ kiện, vv), phương án không có thông tin trong bài đọc, phương án chỉ đúng một phần để còn lại phương án cuối cùng là phương án đúng nhất.

Cần phân tích thật kỹ tất cả các phương án mà người ra đề đưa ra vì phương án trả lời đúng nhất có khi chỉ khác một từ so với các phương án còn lại.

Khi đưa ra quyết định lựa chọn phương án đúng nhất, không nên sử dụng kiến thức của mình về vấn đề được bàn tới (hoặc các kiến thức không được nêu trong bài đọc. Phương án đúng nhất phải là phương án trả lời chínn xác nhất dựa vào thông tin có trong bài đọc.

Như đã nêu ở trên, trong số bốn phương án đưa ra có tới ba phương án mang tính "gây nhiễu" (distractor). Những phương án gây nhiễu này có thể là các từ hoặc câu không đúng, chỉ đúng một phần, hoặc thông tin trong phương án đó không có trong bài đọc, hoặc một từ dùng trong phương án đó khác với từ dùng trong bài đọc (VD: trong bài là từ "should" còn trong phương án là từ "could" trong bài là từ "must" còn trong phương án là từ "will", vv. Chính vì vậy thí sinh nên đọc thật kỹ tất cả các phương án đưa ra. Chúng ta cùng phân tích một bài đọc hiểu làm ví dụ minh họa.

In August 1964, an American man named Norman Cousins suddenly became very ill. Within a week, he was in hospital, unable to move his arms and legs and feeling terrible pain. It was impossible for him to sleep. His doctor said that it was unlikely that he would get better.

Câu hỏi: Norman Cousins went to hospital because he .........

A. was unable to sleep. B. felt extremely unwell.

C. found he could laugh. D. would never get better again.

Đọc tất cả các phương án trên, chúng loại ngay được phương án B vì thông tin không có trong bài đọc. Phương án D có chứa một số từ giống như trong bài đọc nhưng cũng không đúng vì trong bài viết là "His doctor said that it was unlikely that he would get better". Phương án A thoại nhìn có vẻ đúng vì trong bài có câu "It was impossible for him to sleep". Nhưng đọc kỹ lại ta thấy là sau khi nhập viện rồi Norman mới không ngủ được, còn trước đó thì ta không biết, vì trong bài không đưa thông tin này. Vậy chỉ còn phương án C là đúng nhất vì "extremely unwell" là đồng nghĩa với "very ill"

Đối với bài đọc hiểu dưới dạng chọn từ đúng nhất để điền vào chỗ trống, chúng ta cũng có thể áp dụng phương thức làm bài như trên. Ngoài ra các bạn nên tham khảo thêm về cách lựa chọn phương án đúng nhất cho trắc nghiệm câu đơn (single-sentence multiple- choice) như đã trình bày ở trên (phần a).

3. Bài tập xác định lỗi

Đây là loại hình bài tập tương đối phổ biến trong nhiều kỳ thi tiếng Anh nói chung và thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng trong những năm gần đây. Trong bài thi trắc nghiệm môn Anh văn, loại hình bài tập này nằm trong phần kiểm tra kỹ năng viết của thí sinh. Yêu cầu của loại hình bài tập này là như sau:

Trong những câu dưới đây, mỗi câu có bốn từ hoặc cụm từ được gạch dưới, trong đó có một chỗ sai. Xác định chỗ sai và viết câu trả lời trong phiếu trả lời.

One of the most serious medical problem that mankind is facing is H5N1.

A B C D

Chúng ta thấy là về cơ bản, chúng ta có thể áp dụng kỹ thuật làm bài giống như trong phần trắc nghiệm câu đơn. Người thiết kế các câu này muốn kiếm tra thí sinh kiến thức ngôn ngữ tổng quát, nhưng chủ yếu là các kiến thức về ngữ pháp (sử dụng thời, động từ, danh từ, tính từ, mạo từ, vv) từ vựng (dạng thức, sử dụng đúng từ trong văn cảnh, v.v..)

Ví dụ trong câu trên, sau khi xem xột cả bốn từ gạch chân ta xác định được chỗ sai là B vì sau One of phải là một danh từ đếm được số nhiều. Các bạn hãy tham khảo lại cách làm các câu đơn trắc nghiệm như trong phần (a) ở trên.