Giải Quyết Ly Hôn Về Tranh Chấp Quyền Nuôi Con, Chia Tài Sản Ly Hôn

Liên hệ

Số 26/16 Phan Văn Trường, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội


Khi ly hôn, vợ, chồng thường xảy ra các tranh chấp trong ba vấn đề gồm việc ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản khi ly hôn.

Anh A.T.H (Lạng Sơn), do không đồng ý với Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm về việc việc ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản khi ly hôn giữa anh và vợ, đã quyết định ủy quyền cho Luật sư Nguyễn Văn Tuấn (Công ty Luật NewVision) để tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho anh A.T.H theo trình tự, thủ tục Giám Đốc thẩm.


Giải quyết tranh chấp ly hôn

 

Nội dung vụ việc cụ thể như sau:

Anh A.T.H và chị L.T.H kết hôn hợp pháp vào năm 1998. Năm 2011, do xảy ra nhiều mâu thuẫn, chị N.T.L đã xin ly hôn với anh T.H.D.

1. Về con chung, Anh A.T.H và chị L.T.H có 1 người con trai, sinh năm 1998.

Theo lời khai của 2 vợ chồng: Hai bên đồng ý ly hôn, đồng ý để chị L.T.H nuôi con chung và anh A.T.H đóng góp phí tổn nuôi con chung mỗi tháng 500.000 đồng.

2. Về tài sản hiện tại gồm:

aBất động sản:

- Thửa đất có diện tích 92m2, đã đổ đất và xây phòng trọ để cho thuê;

- Thửa đất có diện tích 466m2, đã đổ đất và xây phòng trọ để cho thuê;

- Căn nhà 3 tầng trên diện tích đất 130m2 hiện đang ở;

Ø Theo lời khai của 2 vợ chồng:

- Hai vợ chồng đề nghị xác định 2 thửa đất gồm thửa có diện tích 92m2 và thửa có diện tích 466m2 là tài sản chung và chia theo quy định của pháp luật.

- Về căn nhà 3 tầng trên diện tích 130m2, nguồn gốc căn nhà này là của anh A.T.H. Trước khi kết hôn anh đã có một căn nhà khác, sau đó bán đi được 120 triệu đồng và vợ chồng bù thêm tiền để mua căn nhà này với giá 200 triệu đồng, sau khi mua vợ chồng xây thêm một tầng.

Chị L.T.H cho rằng trước khi kết hôn với anh A.T.H, chị đã phải bỏ ra 60 triệu đồng để sửa căn nhà cũ của anh A.T.H, nên chị L.T.H  đề nghị xác định toàn bộ nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu chia đôi.

Tuy nhiên, anh A.T.H không đồng ý và yêu cầu chia cho anh được hưởng bằng trị giá 2/3 căn nhà trên.

b, Động sản:

- Chiếc xe máy DREAM II;

- Khoản tiền 500 triệu đồng gửi Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn;

- Khoản tiền bán xe ô tô là 170 triệu đồng;

- Đồ dùng sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh;

- Khoản tiền 150 triệu đồng do nhượng bán cổ phần;

Ø Theo lời khai của 2 vợ chồng:

- Về chiếc xe máy DREAM II  mang tên chị L.T.H, hiện anh A.T.H đang sử dụng: Theo chị L.T.H chiếc xe trên chị mua và đăng ký trước khi kết hôn với anh A.T.H, nên là tài sản riêng của chị. Anh A.T.H đồng ý đây là tài sản riêng của chị L.T.H.

- Về khoản tiền 500 triệu đồng gửi Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chị L.T.H cho rằng đây là khoản tiền chị vay để trả khách hàng, nhưng do chưa giao cho khách, nên chị tạm gửi vào ngân hàng, do vậy, số tiền trên không phải là tài sản chung của vợ chồng, và là tài khoản riêng của chị. Anh A.T.H không đồng ý và cho đây là tài sản chung vợ chồng.

- Về khoản tiền bán xe ô tô là 170 triệu đồng anh, A.T.H giữ 100 triệu đồng, chị giữ 70 triệu đồng, chị cho rằng số tiền chị giữ đã chi tiêu hết vào công việc gia đình, nên chị đề nghị xác định 100 triệu đồng anh A.T.H đang quản lý là tài sản chung để chia. Anh A.T.H không đồng ý và khai anh đã đưa vào két và chị L.T.H đã sử dụng.

- Về tài sản khác là đồ dùng sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh, hai người đều đề nghị xác định là tài sản chung để chia

- Về số tiền 150 triệu đồng do nhượng bán cổ phần chị L.T.H đề nghị xác định là tài sản chung chia theo quy định của pháp luật. Anh A.T.H không đồng ý do anh đã đầu tư kinh doanh, nay không còn.

3. Về nợ chung:

Chị L.T.H trình bày vợ chồng có vay của chị D số tiền 2 tỷ đồng, khi vay có viết giấy vay, chị trực tiếp nhận 1 tỷ đồng và anh A.T.H nhận của chị D 1tỷ đồng, nên chị yêu cầu anh A.T.H phải có nghĩa vụ trả nợ chung khoản tiền trên.

Anh A.T.H trình bày anh không thừa nhận vì chị L.T.H vay riêng, anh không biết và không sử dụng khoản tiền này, nên nếu có nợ thì là nợ riêng của chị L.T.H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị D trình bày: Chị chơi thân với vợ chồng chị L.T.H và anh A.T.H do cần tiền nên chị đã cho vợ chồng chị L.T.H và anh A.T.H vay 2 tỷ đồng làm hai lần, khi giao tiền thì chị L.T.H là người trực tiếp nhận tiền một lần với số tiền là 1 tỷ đồng, còn một lần anh A.T.H trực tiếp nhận 1 tỷ đồng. Việc vay tiền chỉ có chị L.T.H là người ký vào giấy vay nhưng anh A.T.H biết và có nhận 1tỷ đồng. Nay anh A.T.H  và chị L.T.H ly hôn, chị yêu cầu vợ chồng anh A.T.H  và chị L.T.H và phải có trách nhiệm cùng trả chị khoản nợ  trên.

Giải quyết ly hôn đơn phương

Quá trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm:

I. Tại bán án dân sự sơ thẩm, TAND ra quyết định như sau:

1. Về tình cảm: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh A.T.H  và chị L.T.H

2. Về con chung: Giao con trai cho chị L.T.H chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tới tuổi trưởng thành. Anh A.T.H  phải đóng góp phí tổn nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng đến khi cháu tới tuổi trưởng thành là 18 tuổi.

Anh A.T.H  có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được phép ngăn cản.

3. Về tài sản:

- Về tài sản riêng: Chị L.T.H được sở hữu chiếc xe máy Dream II

- Xử chia tài sản chung giữa anh A.T.H  và chị L.T.H:

+ Chị L.T.H được sở hữu sử dụng toàn bộ các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình trị giá tài sản là 40 triệu và được sở hữu nhà và đất diện tích 130m2. Tổng cộng là 780 triệu đồng.

+ Anh A.T.H  được sở hữu sử dụng nhà đất với diện tích 466m2 đất vườn và thửa đất có diện tích 92m(trên hai thửa đất này có xây dựng 14 phòng trọ cho thuê) hiện có giá trị là 1 tỷ đồng và được sở hữu 250.000.000 đồng tiền mặt hiện anh đang quản lý.

Anh A.T.H  phải bù chênh lệch trị giá tài sản cho chị L.T.H là 235 triệu đồng.

4. Về nợ: Chị L.T.H và anh A.T.H  mỗi người phải có trách nhiệm trả nợ cho chị D 1tỷ đồng trong thời hạn 02 tháng kể từ bản án sơ thẩm có hiệu lực.

 Sau phiên tòa xết xử sơ thẩm, anh A.T.H  kháng cáo đề nghị xem xét giải quyết lại về việc chia tài sản chung và nợ chung.

II. Tại bán án dân sự phúc thẩm, TAND ra quyết định như sau:

1. Về quan hệ vợ chồng và về con chung, bản án phúc thẩm vẫn giữ ngyên quyết định tại bản án sơ thẩm.

2. Về tài sản riêng: Chị L.T.H được sở hữu chiếc xe máy Dream II

3. Xử chia tài sản chung giữa anh A.T.H  và chị L.T.H:

-Chị L.T.H được hưởng:

+T bộ các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình trị giá tài sản là 40 triệu và được sở hữu nhà và đất diện tích 130m2. Tổng cộng là 780 triệu đồng.

+ 500 triệu đồng tiền mặt gửi tiết kiệm chị L.T.H đã rút về.

+70 triệu đồng tiền bán xe ô tô cho anh A.T.H  (chị L.T.H giữ).

- Chị L.T.H phải có trách nhiệm thanh toán chênh lệch về tài sản cho anh A.T.H  tổng cộng số tiền là 38.649.028 đồng (ba mươi tám triệu sáu trăm bốn mươi chín ngàn không trăm hai mươi tám đồng).

- Anh A.T.H được hưởng:

+ Nhà đất với diện tích 466m2 đất vườn và thửa đất có diện tích 92m(trên hai thửa đất này có xây dựng 14 phòng trọ cho thuê) hiện có giá trị là 1 tỷ đồng,

+ Được sở hữu 250.000.000 đồng tiền mặt hiện anh đang quản lý.

+ Được nhận tiền chênh lệch trị giá tài sản do chị L.T.H thanh toán là 38.469.028 đồng.

4. Về khoản nợ vay:

 Xử huỷ khoản buộc anh A.T.H  và chị L.T.H trả nợ cho chị D mỗi người 01 tỷ đồng vì chưa có cơ sở vững chắc và tách ra để giải quyết bằng vụ kiện khác nếu đương sự có yêu cầu.   

Sau khi xét xử phúc thẩm chị L.T.H có đơn khiếu nại.

III. Tại phiên tòa Giám đốc thẩm, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:

 - Huỷ bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn và bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, xét xử việc ly hôn giữa chị L.T.H và anh A.T.H.

- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Sau khi xét xử giám đốc thẩm, anh A.T.H có đơn khiếu nại.

Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đã thụ lý lại vụ án, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã có thông báo sửa chữa, bổ sung Quyết định giám đốc thẩm theo hướng như sau: Về tình cảm và về con chung: Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã có hiệu lực pháp luật. Về tài sản chung và nợ yêu cầu Tòa án phân chia, nên Tòa án chỉ giải quyết về việc chia tài sản chung và nợ.

Sau khi có thông báo sửa chữa, bổ sung Quyết định giám đốc thẩm, anh A.T.H tiếp tục có đơn khiếu nại. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, anh A.T.H đã quyết định ủy quyền cho Luật sư Nguyễn Văn Tuấn (Công ty Luật NewVision) để tham gia bảo vệ cho anh A.T.H theo trình tự, thủ tục Giám Đốc thẩm.

Theo Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, quá trình xét xử vụ việc ly hôn giữa anh A.T.H và chị L.T.H có nhiều sai sót về thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh A.T.H. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, anh A.T.H và chị L.T.H không khiếu nại về phần quyết định của bản án phúc thẩm đã giải quyết về quan hệ hôn nhân và nuôi con chung mà chị L.T.H chỉ khiếu nại về phần chia tài sản chung và nợ. Ngoài ra, Viện tr­ưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ kháng nghị về phần phân chia tài sản và nợ, đồng thời đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy các quyết định về tài sản và nợ tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Như vậy, quyết định về hôn nhân và nuôi con chung của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Trong thực tế, quan hệ về chia tài sản khi ly hôn không có liên quan với quan hệ hôn nhân và nuôi con chung, đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm đã giải quyết có lý, có tình về hai quan hệ này.

Tuy nhiên tại quyết định giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối cao lại quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, ảnh h­ưởng đến quyền lợi của các đ­ương sự.

Thứ hai, quá trình giải quyết vụ án chị L.T.H thừa nhận vợ chồng có vay của chị D 2 tỷ đồng và cho rằng đây là nợ chung, nên yêu cầu buộc A.T.H có nghĩa vụ trả nợ chung, trong khi đó A.T.H thừa nhận có việc chị L.T.H vay của chị D 2 tỷ đồng, nhưng anh cho rằng là nợ riêng của chị L.T.H, nên không đồng ý trả nợ chung, còn chị D yêu cầu hai vợ chồng trả nợ chung. Trong thực tế, khoản nợ trên có liên quan đến việc phân chia tài sản và nghĩa vụ trả nợ của các đương sự nên phải được xem xét giải quyết trong cùng vụ án thì mới đảm bảo việc thi hành án. Do đó, việc Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết trong cùng vụ án mà tách khoản nợ trên để giải quyết thành vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu là không giải quyết triệt để vụ án và không đúng với quy định của pháp luật.

Thứ ba, sau khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ban hành Thông báo về việc sửa chữa, bổ sung quyết định giám đốc thẩm nêu trên, tuy nhiên, nội dung sửa chữa, bổ sung của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm lại trái với quy định tại Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự. Cụ thể, việc sửa chữa bản án chỉ được áp dụng trong trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai, tuy nhiên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã sửa chữa về nội dung của bản án.

Với những lập luận sắc sảo của mình, Luật sư Nguyễn Văn Tuấn đã hoàn thành xuất sắc vai trò bảo vệ thân chủ của mình tại phiên tòa Giám đốc thẩm. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy Quyết định giám đốc thẩm và Thông báo của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; hủy quyết định về chia tài sản chung và nợ của bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” giữa nguyên đơn là chị L.T.H với bị đơn là anh A.T.H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị D; đồng thời Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại về việc chia tài sản chung và nợ theo đúng quy định của pháp luật.

Có thể thấy, việc giải quyết các tranh chấp về việc chia tài sản chung vợ, chồng là tương đối phức tạp, khó khăn, gây nhiều tranh cãi trong các vụ giải quyết ly hôn tại các cấp Tòa án, do quan hệ tài sản giữa vợ, chồng là quan hệ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, không có tính đền bù ngang giá và không xác định được cụ thể công sức đóng góp của các bên. Và không phải ai cũng nhận thức được điều này, đảm bảo được quyền và lợi ích của chính mình. Chính vì vậy, đây là lúc vai trò của luật sư được thể hiện rõ nhất trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ.

Trân trọng!


 


--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


 

Tư Vấn Ly Hôn Đơn Phương

                    LIÊN HỆ VỚI LUẬT SƯ TƯ VẤN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

                    Địa chỉ: Số 9,Ngách 6A ,Ngõ 6 ,Đường Phạm Văn Đồng ,Q.Cầu Giấy,TP.Hà Nội.

                    Điện thoại: 04.6682.7986 / 6682.8986

                    Hỗ Trợ 24/7 Skype : nguyendat235 & yahoo : luatsutraloi1

                    Hotline 24/7 : 0985 928 544 - 0918368772 ( Luật sư Nguyễn Văn Tuấn )

                    Email: hanoi@newvisionlaw.com.vn


 

 

 






Bình luận

HẾT HẠN

0918 368 772
Mã số : 13767836
Địa điểm : Hà Nội
Hình thức : Cho thuê
Tình trạng : Hàng mới
Hết hạn : 23/04/2019
Loại tin :

Thường

Để mua hàng an toàn trên Rao vặt, quý khách vui lòng không thực hiện thanh toán trước cho người đăng tin!

Gợi ý cho bạn