Liên hệ
Hà Noi, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Tôi là thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) của 1 CTCP được cổ phần hoá từ năm 2007 có dưới 100 nhà đầu tư, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng. Từ đó đến nay, công ty tôi đã thay đến 3 đời chủ tịch HĐQT từ 3 lần chuyển nhượng cổ phần. Song, tại mỗi lần thay đổi này, tôi đều không được xin ý kiến chính thức bằng văn bản. Xin hỏi, pháp luật có quy định bắt buộc việc thay đổi Chủ tịch HĐQT phải xin ý kiến các thành viên HĐQT hay không? Nếu ông Chủ tịch HĐQT hay thành viên HĐQT chuyển nhượng CP trong thời gian còn đương nhiệm hoặc CP chưa hết thời hạn hạn chế chuyển nhượng 3 năm được thực hiện như thế nào?
(Bùi Quang Huy – Cầu Giấy, Hà Nội)
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi của mình đến công ty Luật Newvision của chúng tôi. Với trường hợp của bạn Luật sư Nguyễn Thị Vinh chuyên gia về lĩnh vực Luật Doanh nghiệp xin đưa ra ý kiến tư vấn như sau:
Khoản 2 Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị, trong đó có quyền “Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch Hội đồng quản trị” (điểm i). Đồng thời, khoản 1 Điều 152 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định rõ Hội đồng quản trị bầu một thành viên trong số các thành viên của Hội đồng quản trị làm chủ tịch. Như vậy, khác với Luật doanh nghiệp 2005 trao quyền bầu chủ tịch hội đồng quản trị cho Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị tuỳ vào quy định của điều lệ công ty thì Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định cụ thể Chủ tịch Hội đồng quản trị phải do các thành viên của Hội đồng quản trị trực tiếp bầu ra. Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp 2014 việc bầu Chủ tịch HĐQT bắt buộc phải được thông báo cho các thành viên trong Hội đồng quản trị. Chủ tịch HĐQT sẽ được các thành viên bầu bằng cách biểu quyết tại cuộc họp theo nguyên tắc đa số, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ công ty quy định và mỗi thành viên Hội đồng quản trị sẽ chỉ có một phiếu biểu quyết. Trong trường hợp này, Công ty của bạn bầu Chủ tịch HĐQT mà không xin ý kiến của bạn – thành viên HĐQT là trái với các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014.
Đối với việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp 2014 đưa ra 2 trường hợp đó là quy định tại khoản 3 Điều 116 “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác” và quy định tại Khoản 3 Điều 119 “Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông”. Tuy nhiên, chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sau đó sẽ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
Như vậy, việc cho phép hoặc hạn chế chuyển nhượng cổ phần của Chủ tịch và thành viên HĐQT phụ thuộc vào việc họ có phải là cổ đông sáng lập của Công ty hay không. Cụ thể gồm hai trường hợp sau:
Nếu Chủ tịch và thành viên HĐQT là cổ đông sáng lập của Công ty thì họ bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần phổ thông theo quy định nêu trên. Theo đó, trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập chỉ được tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông cho các cổ đông sáng lập khác, nếu chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập thì bắt buộc phải được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ (hạn chế này không áp dụng đối với cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng kí thành lập doanh nghiệp).
Nếu Chủ tịch và thành viên HĐQT không phải là cổ đông sáng lập của Công ty thì Luật Doanh nghiệp 2014 không có quy định nào cấm hay hạn chế đối với việc chuyển nhượng cổ phần mà họ sở hữu tại bất kỳ thời điểm nào, khi họ còn đương nhiệm hay không. Tuy nhiên cần lưu ý trường hợp điều lệ công ty quy định về điều kiện của thành viên hội đồng quản trị bắt buộc phải là thành viên của công ty thì nếu chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần của mình cho người khác thì người đó đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và sẽ bị miễn nhiệm theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Luật Doanh nghiệp.
Trên đây là ý kiến tư vấn của công ty chúng tôi với trường hợp của bạn, nếu có bất kỳ thắc mắc nào khác vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.
http://newvisionlaw.com.vn/bau-chu-tich-hoi-dong-quan-tri-va-chuyen-nhuong-co-phan.html
HÃY LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN MIỄN PHÍ
Hoặc bạn có thể gửi nội dung đăng ký tư vấn miễn phí theo biểu mẫu dưới đây-Chúng tôi sẽ liên lạc lại ngay!
HẾT HẠN
Mã số : | 14028432 |
Địa điểm : | Hà Nội |
Hình thức : | Cho thuê |
Tình trạng : | Hàng mới |
Hết hạn : | 16/04/2019 |
Loại tin : | Thường |
Gợi ý cho bạn
Bình luận