Dù nguyên tắc chung để ra đề thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2011 vẫn bám sát chương trình và sách giáo khoa, chủ yếu là lớp 12, nhưng vẫn có nhiều điểm thí sinh cần phải đặc biệt lưu ý để đạt điểm cao ở từng môn thi.
Môn toán: nắm vững kiến thức cơ bản
Cấu trúc đề thi môn toán những năm gần đây khá giống nhau. Trong đó, câu I (2 điểm) thường được chia thành hai câu nhỏ. Câu 1 yêu cầu khảo sát và vẽ đồ thị của hàm số. Thí sinh cần lưu ý các kiến thức về đạo hàm, khảo sát dấu đạo hàm, đường tiệm cận... Câu 2 thường yêu cầu tìm giá trị m (có liên quan đến đồ thị hàm số trên).
Thí sinh phải dựa vào tính chất đồ thị kết hợp với kiến thức hình học, tiếp tuyến, kiến thức tổng hợp về tổng, tích S, P... để làm câu này.
Câu II (2 điểm) thường có hai câu nhỏ. Trong đó câu 1 thường là giải phương trình hay hệ phương trình lượng giác. Câu 2 hay có dạng giải phương trình hay hệ phương trình đại số (thường là hai ẩn x, y). Thí sinh cần biết đặt các ẩn phụ để đưa bài toán trở về đơn giản hơn, biến đổi các hằng đẳng thức đáng nhớ, thậm chí có đề phải dùng đến bất đẳng thức Cauchy để giải.
Có thể câu này là giải bất phương trình, thí sinh phải đặt điều kiện, chuyển hết về một vế để giải và xét dấu, kết hợp nghiệm với điều kiện ban đầu ở trên để ra kết quả cuối cùng.
Câu III (1 điểm) thường là câu tích phân xác định, tích phân từng phần hoặc dạng đổi biến. Lưu ý sau khi làm xong, thí sinh có thể dùng máy tính để kiểm tra kết quả bằng cách dùng nút bấm với format lệnh (hàm biến X, a, b). Nếu thấy kết quả khác phải xem lại cách tính của mình.
Câu IV (1 điểm) là câu hình học không gian thuần túy, thí sinh cần nắm vững các định lý về song song, thẳng góc, ba đường vuông góc, các công thức thể tích khối đa diện trong hình không gian. Câu tìm khoảng cách từ một điểm đến mặt phẳng thường dùng định lý ba đường vuông góc, định lý thuận và đảo Pitago, cũng có thể dùng tính chất song song.
Thầy TRẦN QUANG PHÚ (Trường THPT Phú Nhuận, TP.HCM)
Môn vật lý: nắm vững lý thuyết
Cả đề thi môn vật lý 50 câu gồm 40% câu trung bình khá, 40% câu khá và 20% câu mang tính phân loại cao dành cho học sinh giỏi. Phần câu hỏi trắc nghiệm mang tính lý thuyết từ 10-12 câu, đa số rơi vào dao động âm, dao động tắt dần, duy trì hay cưỡng bức, một phần ở động cơ điện, máy phát điện, các tính chất đặc trưng của ánh sáng, các hiện tượng thể hiện tính hạt, tính sóng...
Từ 3-4 câu về vật lý vi mô, phóng xạ và hạt nhân... Để làm tốt các dạng lý thuyết này, thí sinh không những phải thuộc bài mà còn phải hiểu sâu các kiến thức trong sách giáo khoa.
Còn lại là các câu hỏi tính toán, dạng một bài toán tự luận thu nhỏ. Phần lớn rơi vào chương dòng điện xoay chiều, sóng ánh sáng, sóng dừng, dao động lò xo, con lắc đơn, lượng tử ánh sáng, phóng xạ. Phần bài tập sóng ánh sáng thường là giao thoa ánh sáng với những kiến thức quen thuộc như tìm số vân, vị trí vân trùng...
Phần bài tập hạt nhân nguyên tử chú ý đến năng lượng liên kết riêng, số hạt nhân phân rã trong hiện tượng phóng xạ, năng lượng phản ứng...
Với phần dao động cơ học, học sinh thường vướng ở vấn đề thời gian đi từ điểm này đến điểm kia. Trừ một số trường hợp đặc biệt có thể học thuộc, nên chú ý phương pháp giải tổng quát dựa vào mối liên hệ giữa dao động điều hòa và chuyển động tròn đều.
Với phần dòng điện xoay chiều, một số câu hơi khó có thể vẽ giản đồ và dùng kiến thức hình học đơn giản để giải. Nếu thí sinh ôn luyện kỹ, biết áp dụng những kết quả của các bài tập như một công thức sẽ nhanh hơn rất nhiều.
Môn hóa: chia đề thành ba nhóm để giải
Khi làm bài thi môn hóa, thí sinh nên chia đề thành ba nhóm để giải.
Nhóm 1 là nhóm câu hỏi giáo khoa dễ lấy điểm. Các em cố gắng giải nhanh nhóm câu hỏi này trong vòng 15 phút và sẽ được điểm trên 15 câu.
Nhóm 2 là nhóm câu quyết định kết quả thi. Thời gian cho nhóm câu này khoảng 60 phút. Ở nhóm câu này, chủ yếu dùng công thức riêng để giải. Hãy đọc kỹ đề bài các em sẽ thấy được công thức giải đó. Các công thức giải này các em nên chuẩn bị sẵn từ các đề đã thi.
Nhóm 3 là nhóm câu chưa có hướng giải quyết. Nếu đã chuẩn bị kỹ thì nhóm câu này còn khoảng 6-10 câu. Các em đừng quá lo lắng, trước khi giải nên dành ít phút thư giãn nhằm giảm bớt căng thẳng. Nếu vẫn chưa có hướng giải quyết, các em nên chọn các phương án từ sự loại suy, không nên bỏ trống câu nào.
Câu V (1 điểm) là câu khó nhất trong phần chung cũng như khó nhất trong cả đề thi. Thường là dạng chứng minh bất đẳng thức có điều kiện về đẳng thức hay bất đẳng thức hay tìm max, min của một biểu thức, hay max, min của một hàm số.
Thí sinh cần sử dụng thành thạo và biến đổi nhuần nhuyễn các bất đẳng thức như Cauchy, Bunhiakopski và cả bất đẳng thức tam giác, các điều kiện khi các bất đẳng thức xảy ra đẳng thức.
Câu VI.a (1 điểm) là câu hình học giải tích phẳng, đòi hỏi thí sinh phải nắm vững các kiến thức hình học thuần túy khá chắc, cộng với kỹ năng đặt tham số đúng sẽ làm đơn giản phần tính toán, nếu không phần tính toán sẽ rắc rối, phức tạp. Đối với câu VI.b. (1 điểm) là câu hình học giải tích không gian, đòi hỏi thí sinh phải nắm vững các kiến thức về phương trình mặt phẳng, đường thẳng, khoảng cách từ một điểm đến mặt phẳng, đường thẳng, cách xác định tâm và bán kính mặt cầu.
Cuối cùng, câu VII (1 điểm) là câu số phức (có mặt trong hai năm trở lại đây). Thí sinh cần nắm vững công thức đại số, lượng giác và công thức Moivre trong số phức, đôi khi bài toán số phức được đưa về bài toán hình giải tích trong mặt phẳng. Cũng có thể là câu thuộc giải phương trình, hay hệ phương trình hàm log hay hàm mũ hoặc có thể là câu giải tích tổ hợp (không có mặt trong hai năm trở lại đây).
Thí sinh cần nắm vững biến đổi các công thức tổ hợp, chỉnh hợp, lấy tích phân và đạo hàm trong khai triển công thức nhị thức Newton.
Với cấu trúc một đề thi gồm các câu với mức độ phức tạp tương ứng như trên, thí sinh nên ưu tiên làm các câu từ dễ tới khó.