Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu?

Cô giáo yêu cầu mình Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu các bạn ạ, các bạn Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu giúp mình với...

Đỗ Xuân Trường
Đỗ Xuân Trường
Trả lời 9 năm trước

Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu

I . ĐẶT VẤN ĐỀ .

Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng . Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc . Đây là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng chiến thắng lợi . Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện những ân tình cách mạng , và vì thế bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người , trở nên gần gũi , đằm thắm hơn với những cung bậc lan toả của nó .

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .

Mở đầu bài thơ là những lời phảng phất phong vị ca dao, tái hiện cảnh tiễn đưa đầy dùng dằng, quyến luyến .

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn .


Con người đang đứng trước một cuộc biệt li nên câu thơ cũng nhuốm màu li biệt . Tác giả đặt đại từ “mình” và “ta” ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại : không biết bạn có còn thuỷ chung trước bao đổi thay và cám dỗ của cuộc sống mới . Lòng ngập tràn nhớ thương, người ở lại không nén được lòng mình đã đưa ra những câu hỏi dồn dập : mình có nhớ ta, mình có nhớ không ? ...càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến , cứ vang lên như một niềm khắc khoải khôn nguôi . Không chỉ đưa ra những câu hỏi, người Việt Bắc còn nhắc lại khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha . Mới đọc ta bắt gặp tứ thơ quen thuộc từ ca dao tình yêu nam nữ kiểu như : Mình về có nhớ ta chăng , Ta về ta nhớhàm răng mình cười ... trong đó người tình chỉ nhắc đến kỉ niệm mười lăm năm ấy . Nhưng đến cặp lục bát tiếp theo thì nó không còn là tình yêu nữa mà được thay thế bằng tình yêu thương gắn bó với với mảnh đất quê hương Vịêt Bắc . Nhớ núi, nhớ rừng thực chất là nhớ ngọn nguồn của cách mạng .

Bốn câu thơ đầu tạo thành hai câu hỏi rất khéo mà mỗi câu hỏi về một khía cạnh khác nhau : thời gian và không gian gói gọn một thời cách mạng, một vùng cách mạng .

Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch của kẻ ở, người đi im lặng lắng nghe :

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi


Người ra đi im lặng là để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào hồn mình cho thật vẹn tròn, đầy đủ . Lặng im nhưng vẫn không kém phần mãnh liệt . Người ở lại nói thiết tha, người đi nghe thiết tha, sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng người . Nhịp thơ lục bát đang đều đặn, nhịp nhàng đến đây như cũng vì chút bối rối ấy trong lòng người mà thay đổi :

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay .


Trong thời khắc chia tay sau một khoảng thời gian dài gắn bó, có biết bao nhiêu kỉ niệm ngọt bùi, sâu nặng, có nhiều điều để nói nhưng khong thể nói đủ, nói trọn vẹn cùng nhau . Vì thế lòng người cũng bâng khuâng, bước chân cũng bồn chồn, và mặc dù người đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng hình ảnh áo chàm và hành động cầm tay nhau im lặng đó trả lời thay tất cả, nó chất chứa cả bề sâu cảm xúc của cả người đi và kẻ ở .

Bao trùm lên tất cả trong tâm trạng của kẻ ở và người đi là nỗi nhớ da diết mêng mang với nhiều sắc thái khác nhau . Người ở lại băn khoăn tự hỏi về lòng thuỷ chung son sắt của người ra đi thì ngược lại người ra đi khẳng định nghĩa tình mãi không phai nhòa trong kí ức . Và cứ thế Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm thật sinh động và cụ thể .

Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những tháng ngày gian khổ hi sinh : Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, khó khăn nhiều, gian

khổ cũng lắm nhưng cán bộ và đồng bào đồng cam cộng khổ, cùng có mối thù sâu nặng với quân xâm lược : Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai . Đồng thời nhớ đến Việt Bắc cũng là nhớ đến những nghĩa tình đồng bào sâu nặng . Người về khiến núi rừng cũng trở nên trống vắng, ngẩn ngơ, các điệp từ mình về, mình đi được nhắc đi nhắc lại một cách tha thiết khiến cho không gian, thời gian Việt Bắc hiện ra từ trong khói sương của hoài niệm , của tâm trạng chất chứa nhớ nhung trở nên rõ nét và rõ tình hơn .Đại từ “ai” phiếm chỉ được sử dụng để như hỏi vào sự trống vắng nay mai của lòng mình . Với thủ pháp đối lập giữa một bên là lau xám với lòng son, giữa hắt hiuđậm đà , người ở nhấn mạnh sắc độ của nỗi nhớ . Người ở lại còn bày tở nõi lo âu, dự cảm : Mình về mình lại nhớ mình . Ba chữ mình được dùng liên tiếp trong một dòng thơ làm cho ý thơ trở nên đa nghĩa một cách thú vị . Mình ở đây là tôi, là chủ thể của nỗi nhớ, và mình cũng có thể là khách thể của nỗi nhớ . Và biết đâu đó đây lại là lới nhắc nhở người đi liệu rồi có còn nhớ chính bản thân mình . Cả người đi và kẻ ở đều được gói gọn trong một chữ mình tha thiết . Và nói gì đi nữa cả tamình đều là những người kháng chiến, đều là cách mạng nên khong tách rời nhau là lẽ dĩ nhiên, là điều dễ hiểu .

Đáp lại những băn khoăn của người ở lại , người ra đi khẳng định một điều đinh ninh tình nghĩa của mình vẫn còn sâu nặng , dẫu có thế nào thì sự keo sơn, gắn bó bền chặt vẫn không phai nhạt theo thời gian :

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh .


Và cụ thể hơn nữa, người ra đi khặng định : Mình đi mình lại nhớ mình và nghĩa tình mãi dạt dào không bao giờ khô cạn : Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu .

Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho cảnh Việt Bắc tái hiện trong nỗi nhớ của người về xuôi đã đẹp lại càng trở nên đẹp hơn, càng trở nên lung linh huyền ảo . Nỗi nhớ trong lòng người đi day dứt, thiết tha đến độ cồn cào, ám ảnh như nhớ người yêu . Lấy nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi để đo nỗi nhớ về ngọn nguồn kháng chiến, về nghĩa tình cách mạng, đó là một sáng tạo của hồn thơ Tố Hữu .
Và cũng chính từ sự gắn bó và nỗi nhớ thương da diết đó, thiên nhiên Việt Bắc mới hiện lên đẹp lộng lẫy như một bức tranh tứ bình về bốn mùa với những nét đặc trưng của Việt Bắc :

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung .


Trong bề bộn của kí ức và hoài niệm , bức tranh sáng đẹp về Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên những kỉ niệm .
Và trong bức tranh thiên nhiên sống động, bừng sáng đó có sự xuất hiện của con người đang cần mẫn lao động: chuốt từng sợ giang, hái măng một mình giữa rừng vàng . Nhưng có lẽ để lại ấn tượng nhất là tiếng hát ân tình thuỷ chung của con người Việt Bắc . Nó vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người ra đi . Điệp từ nhớ được lặp lại nhiều lần như khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương tha thiết .
Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ người, nhưng quan trọng hơn là nhớ về cuộc kháng chiến, một Việt Bắc trong kháng chiến thật hào hùng .

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng .
Quân đi điệp điệp trùng trùng
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân quân đỏ đước từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên


Tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru đến đây được tác giả phá vỡ để tạo ra một kết cấu khác phi đối xứng làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành quân vũ bão . Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả , hình ảnh kì vĩ , ý thơ phóng xa vào viễn cảnh ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng . Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng” thật chính xác . Còn từ ngữ nào để diễn đạt sức mạnh của đoàn binh tràn đầy nhiệt huyết hơn những từ ấy ? Nó vừa diễn tả vẻ đẹp hùng dũng bên ngoài lại vừa miêu tả sức mạnh quật cường bên trong . Trong những con người hiên ngang ấy, họ không chỉ biết làm bạn với khói lửa đạn bom mà họ còn đôi lúc thả hồn theo trăng sao . Sự hài hoà giữa sự dữ dội và vẻ đẹp lãng mạn đã làm nên sự chói sáng trong tâm hồn người lính . Hình ảnh ánh sao đầu núi mặc dù không mới (Đầu súng trăng treo - Đồng chí – Chính Hữu) nhưng vẫn có sức lay động kì lạ cái phần hồn dân tộc trong mỗi con người Việt Nam .

Và bài thơ khép lại bằng lời khẳng định Việt Bắc mãi là cái nôi, là quê hương của phong trào cách mạng, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của người Việt Nam trên khắp mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù .

III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Tố Hữu viết về nghĩa tình cách mạng . Bài thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc cảm mà còn là lời khẳng định đinh ninh sự thuỷ chung son sắt của những người cách mạng , là khúc ca bất tận của tình nghĩa được viết với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào , vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng

Vũ Thị Hằng
Vũ Thị Hằng
Trả lời 9 năm trước

Nhà thơ Tố Hữu gắn liền với những vần thơ cách mạng, thơ của ông mượt mà trong từng câu chữ, trong từng nhịp phách. Thơ Tố Hữu luôn có sức hút lớn đối với người đọc, những ai đã đọc thơ của ông thì không thể bỏ qua bất kỳ câu chữ nào. Tư tưởng chính trong thơ của Tố Hữu là niềm say mê lý tưởng, là tính dân tộc, là tinh thần cách mạng sáng chói.Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4-10-1920, quê làng Phù Lai, xả Quảng Thọ, huyện Quàng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Nói thơ của ông mượt mà truyền thống dân tộc, bởi lẽ, ngay từ lúc ấu thơ,tâm hồn Tố Hũu đã được vun đắp, ấp yêu trong những câu ca dao, tục ngữ của cha , những bài dân ca xứ Huế, những giọng hò tha thiết, ngọt ngào của mẹ và trong cái nôi quê hương thơ mộng đất Huế, giàu văn hóa, bản sắc dân tộc, đã hình thành nên một hồn thơ của truyền thống, của quê hương- hồn thơ Tố Hữu.
Bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm cao trào cách mạng, Tố Hữu nhanh chóng bị lôi cuốn vào phong trào đấu tranh, gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Do đó đã dịnh hình ở Tố Hữu phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Vũ khí của chiến sĩ là súng, nhưng ở Tố Hữu bằng cả ngòi bút, bởi vì đối với ông thơ và cách mạng đã hòa là một, trong thơ có lý luận chính trị sắc bén , trong cách mạng có tiếng nói ân tình thủy chung của người con xứ Huế Tố Hữu

Sống giữa quê hương luôn biến động , hồn thơ Tố Hữu được trui rèn và thường vang ứng nhạy bén, dạt dào cảm hứng trước những bước ngoặc lịch sử , nên con đường thơ cũng đồng hành, gắn bó với những giai đoạn ấy .
Vì thế ta dễ hiểu lý do Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, rút ra từ tập thơ cùng tên, là một đỉnh cao, một tác phẩm xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp.Việt Bắc được sáng tác tháng 10 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Trung ương Đảng và chính phủ quyết định rời căn cứ từ Việt Bắc về Hà Nội. Đây là lúc giao thời giữa lịch sử và lòng người.Trong không khí hân hoan của cuộc sống mới, Tố Hữu hướng tâm hồn mình vào một nỗi niềm khác. Ông tự hỏi rằng liệu trong thời đại mới, con người có dễ dàng quên đi những năm tháng chiến đấu gian khổ, vĩ đại đã qua, liệu chúng ta có dễ dàng thoả mãn bằng lòng với hiện tại mà mờ phai quần chúng đã hi sinh đổ máu.Trong lúc giao thời ấy nhưng lại nhạy cảm với tâm hồn thơ Tố Hữu, Việt Bắc xuất hiện như một tiếng nói ân tình, tha thiết của tác giả với nhân dân kháng chiến, cũng là sự ngụ ý với tất cả mọi người.
Việt Bắc, bài thơ truyền thống, hình thức gần gũi nhưng nội dung có sự tìm tòi sáng tạo của tác giả.
Cả đoạn trích liên tục với những câu thơ 6,8 trải dài nên cấu tứ gần với thể loại ca dao dân ca.Và hình thức thể hiện chỉ ca dao, dân ca mới có, dó là lối đối đáp của kẻ ở người đi, chân thành, tha thiết không kém lối dao duyên của nam nữ, của những người yêu nhau. Thêm vào đó là giọng điệu ngọt ngào tâm tình, nhạc điệu theo cấu trúc 4/4 xoáy sâu vào lòng người đọc những ân hưởng du dương cuả văn học dân tộc. Cho nên Việt Bắc rất gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc.Việt bắc quả là một tác phẩm mang đậm tính nghệ thuật dân tộc.
Nhưng nếu chỉ có thế thì xem ra Tố Hữu không có gì là đổi mới, sáng tạo về nghệ thuật.Nhưng khi xét cái hay của tác phẩm, ta không chỉ đơn thuần thưởng thức tác phẩm ở hình thức, cấu trúc thơ mà còn ở cái hồn, chính là nội dung tác phẩm.Với Việt Bắc, thoạt nhìn cứ tường đây là cuộc tâm tình giữa những cá thể nhưng đọc kĩ, ta phát hiện ra cái riêng tâm tình ấy đã hoá thành cái chung, một vấn đề hết sức to lớn không của riêng ai, đánh động vào không ít tâm hồn người đọc: đó chính là mối ân tình gắn bó thuỷ chung giữa chiến sĩ cách mạng và nhân dân vùng kháng chiến.
Đến đây đã thể hiện được tài năng cách mạng hoá, chính trị hoá thơ Tố Hữu.Nhưng cách mạng hoá,chính trị hoá ở đây không phải là đưa thơ vào chỗ khô khan, tuyên truyền mà với Tố Hữu đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống dân tộc và tư tưởng tiến bộ , nhạy cảm.Cho nên đọc việt bắc ta cảm nhận được sự thân quen, gần gũi nhưng lại có cảm giác bừng tỉnh, mới mẻ, sâu sắc.
Đoạn trích mở đầu với cuộc chia ly thấm đẫm sự lưu luyến, thương tiếc:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Đại từ “mình-ta” được lặp đi lặp lại nhiều lần, không biết tự khi nào “mình” và “ta” đã gắn bó gắn bó gần gũi, keo sơn như vậy. “Ta”-nhân dân Việt Bắc thiết tha cất tiếng hỏi người ra đi:
Mình về mình có nhớ không?
tựa như nỗi niềm của ngưởi con gái luyến tiếc, không đành lòng chia tay người yêu. “Mình” ra đi liệu có khắc cốt ghi tâm ơn tình, ân nghĩa của “ta”.Cho nên câu hỏi có sự lắng đọng sâu sắc, từ thắm trong tâm hồn “ta” mong chờ ở mình sự chung thuỷ, nhớ thương như tình cảm của “ta” đối với “mình”.
Đáp lại sự thiết tha của người ở lại, người ra đi cũng tha thiết nên nỗi không cất thành lời.Tấm lòng luôn hướng về những kỉ niệm, sự yêu thương, gắn bó cùng thời gian, người ra đi mang bên mình một nỗi bâng khuâng, bước đi không đành, bồn chồn, không dứt khoác.
Trong giây phút này, bất kì lời nói nào cũng không tỏ hết nỗi lòng của kẻ đi người ở, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt, truyền cho nhau cảm xúc, cảm giác, truyền cho nhau câu trả lời thầm kín để ngươì ở lại tin rằng, dù mai sau, dù có ở đâu chăng nữa, tấm lòng này vẫn chung thuỷ, sắt son hướng về nơi ân nghĩa tình người.
Đoạn trích mở đầu thật xúc động, sâu lắng, dù không có câu trả lời của người ra đi nhưng ta lại nhận ra một mạch ngầm tri âm hiện hữu. Điều đó nói lên rằng ta và mình vốn thương nhau, gắn bó như ruột thịt, không cần nói vẫn hiểu nhau.
Chỉ bằng những câu thơ đầu tiên đã thể hiện tài năng tột cùng của tác giả khi thể hiện hình thức thơ. “Mình” và “ta” , tựa như hai cá thể đang đối thoại nhưng thật ra là sự độc thoại của chính tác giả.Tố Hữu,cũng là chủ thể trữ tình, phân thân để dễ dàng bày tỏ tâm trạng, cảm xúc.Cuộc đối thoại vốn chân tình, sâu lắng như vậy chắc hẳn tấm lòng của tác giả còn da diết, không đành hơn nữa.Qua đó cho ta thấy một điều, mối tình giữa nhân dân vùng kháng chiến và chiến sĩ cách mạng trong sáng, hoà quyện, không thể tách rời.
Vẫn lời tha thiết của người ở lại, khổ hai mở ra một Việt Bắc đắng cay,sục sôi ý chí, ơn nghĩa , keo sơn:
Trong gian khổ của những năm đau thương chiến đấu, sự khắc nghiệt cuả thiên nhiên, vật chất thiếu thốn không làm lung lay ý chí con người, “mình” và “ta” đùm bọc, gắn bó, gian khó bao nhiêu thì tinh thần lên cao, quyết tâm trả thù bấy nhiêu:

Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Một tấm lòng, một ý chí, “ta” và “mình” đã cùng vượt qua bao khổ đau để đến với một niềm tin vào ngày mai, tấm lòng ấy đậm đà, toả sánh như ánh nắng chiếu sáng những âm u, của “những mây cùng mù”, của những “hắt hiu lau xám”

Mình đi,có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Tiểu đối “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son” làm cho câu bát có cấu trúc đẹp , hài hoà khiến cho màu son của tấm lòng Việt Bắc như càng hắt sáng lên trên nền lau xám nghèo khó,mang đến sự xao xuyến mãi.
Những cấu trúc câu 4/4 liên tục rõ ràng, mạch lạc, mang đến nhạc điệu êm ả, khiến cho câu thơ như một bài hát ,của sức mạnh, sự nhắc nhở và niềm tin.
Qua bao câu hỏi thiết tha của người ở lại, giờ đây người ra đi mới cất tiếng, khẳng định một tấm lòng trước sau như một:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước ,
nghĩa tình bấy nhiêu

Đọng trong tâm trí người ra đi là ánh trăng, là nắng chiều:

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Là từng bản khói bên bếp lửa thân quen, nhớ từng củ sắn lùi, những bữa ăn đạm bạc nhưng ấm cúng:

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Thương nhau , chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng

Và từng rừng tre nứa bao bọc, che chở chiến sĩ trước quân thù
Hay cảm động xót xa trước hình ảnh người mẹ địu con trên đồng nắng gắt bẻ từng bắp ngô:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưn
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Ôi, bao nhiêu gian khổ, nhưng những đắng cay ấy lại làm nên một tinh thần đoàn kết, cứng rắn, luôn yêu đời :

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Bây giờ xa rồi, tưởng chừng như tâm hồn mình đứng lại, chợt lắng nghe hay là tưởng tượng, âm thanh cuả tiếng mõ, tiếng cối đều đều, cứ chạm sâu vào tâm can, như gọi người ra đi trở lại:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Bởi vậy mới biết tấm chân tình của chiến sĩ và nhân dân Việt nam sấu sắc đến nhường nào.
Nếu khổ thơ trên chỉ là đơn thuần nhớ về con ngưòi vùng Việt Bắc thì khổ thơ sau đây thể hiện chiều sâu vượt bậc của Tố Hữu khi nâng cao giá trị của con người, cùng với thiên nhiên đã làm nên một vẻ đẹp lung linh của vạn vật nơi này:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Tố Hữu ví người như hoa, cũng phải, bởi “người ta là hoa đất”, đó là những người dân lao động cần cù, trẻ, khẻo,tinh thần cao. Nhưng nếu chỉ có vậy thì không hết được dụng ý của tác giả. Tố Hữu đã mở bừng ra một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi sáng, với bốn mùa xuân, hạ, thu ,đông, đó là một bức tứ bình đạt tới độ hài hào, cân xứng: muà đông rực màu đỏ hoa chuối giữa nền rừng xanh mênh mông; muà xuân tinh khiết bởi màu trắng hoa mơ;muà hè rực lên sắc vàng rừng phách; mùa thu huyền ảo ánh trăng soi. Trình độ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu đã đạt đến trỉnh độ điêu luyện và có thể sánh với vẻ đẹp cổ điển trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Ở đây còn có sự sáng tạo ngôn ngữ độc đáo:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Âm thanh đánh vào thính giác vậy mà mắt như thấy được sắc vàng loan cả khu rừng.Tiếng ve, một âm thanh tiêu biểu, vô tình thôi nhưng khi cất lên đã đánh thức, làm bừng tỉnh vạn vật.Nghe mà như thấy, Tố Hữu đã thực sự hoà quyện mình vào từng con suối dòng sông nơi đây.Chỉ có ai có sự gắn bó tha thiết, sâu sắc mới có khả năng này.
Thiên nhiên này càng đẹp bởi có hoa, có người. Thiên nhiên và con người đan cài làm nên sự duy nhất, vĩnh cửu của Việt Bắc nơi đây. Đó chính là dụng ý của tác giả khi cứ một câu thơ tả cảnh lại xen một câu thơ tả người, mang đến cho bài thơ nét trữ tình, ngọt ngào.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh, nhớ người, nhưng quan trọng nhất là nhớ về kháng chiến – một Việt Bắc kháng chiến thật hào hùng. Vẻ độc đáo của một Việt Bắc đứng lên là hình ảnh cả núi rừng đánh giặc:

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Chữ “rừng” rải kín những câu thơ, rải kín đất Việt Bắc, tạo thế hiểm của trường thành lũy thép vây bọc quân thù.
Nhưng ở Việt Bắc, đẹp nhất là hình ảnh toàn dân kháng chiến. Thực tiễn cách mạng lúc này đòi hỏi phải miêu tả khí thế của đám đông trên nền không gian lớn, do vậy cái bút pháp thủ thỉ “mình – ta” kia phải nhanh chóng vươn tới hình thức tráng ca:

Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Từ tiết tấu ngân nga dìu dặt như lời ru ở những đoạn thơ trên
Nhớ gì/ như nhớ / người yêu
Trăng lên đầu núi/ nắng chiều lưng nương,
đến đây tác giả phá vỡ tính cân xứng để tạo ra một tiết tấu khác, phi đối xứng
Quân đi / điệp điệp trùng trùng…
Dân công / đỏ đuốc từng đoàn…
Nghìn đêm / thăm thẳm sương dày…
Làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả: nát đá, thăm thẳm, bật sáng…, hình ảnh kì vĩ ( hình ảnh bộ đội, dân công nườm nượp những nẻo đường kháng chiến ), ý thơ mở ra một tương lai tươi sáng:

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên…

Tất cả tạo một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng.
Ở khổ thơ cuối đoạn trích, hình thức hỏi – đáp đã trở nên hết sức tinh tế và sâu sắc:

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ của chân lí, châm ngôn. Việt Bắc thành đầu mối quy tụ tư tưởng, tình cảm của cả dân tộc, là điểm chốt lại bài thơ. Việt Bắc trở thành biểu tượng chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí toàn dân. Việt Bắc bình dị thành Việt Bắc thiêng liêng.
Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đẹp của mình trong thành công của bài thơ Việt Bắc. Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu với hình thức cấu tứ đậm tính dân tộc, do vậy giọng lục bát điêu luyện, ngọt ngào của thơ Tố Hữu vừa nói được những vấn đề rất lớn của thời đại mới, vừa chạm được vào chỗ thẳm sâu trong truyền thống ân nghĩa thủy chung của tâm hồn con người Việt Nam.