Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ mới.

Trả lời 15 năm trước
Thiên nhiên nơi biểu hiện tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, bạn bè Trên bước đường gió bụi, thiên nhiên là người bạn thân thiết nhất luôn kề vai sát cánh cùng nhà thơ. Với nhà thơ, thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp. Cái đẹp núi, sông, cỏ cây, tuyết, trăng, hoa… thấm sâu trong lòng người bằng tình cảm thân thương nhất. Người yêu thiên nhiên bằng tình cảm chân thành của một “lữ nhân phù thế”. Thiên nhiên cũng chính là hình ảnh quê hương đất nước. Trên từng bước chân đi trong lòng thiên nhiên, trong lòng vũ trụ, thời gian trôi bằng “sứ giả” các mùa thay nhau về ngự trị, thi nhân Basho không tránh khỏi bùi ngùi nhớ về một cái gì xa xôi trong sâu thẳm tâm hồn về một miền quê mà ông đã từng gửi thân qua cuộc đời gió bụi. Đó là nỗi nhớ quê hương không nguôi. Nghe tiếng chim đỗ vũ ở kinh đô mà nhớ kinh đô. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Basho đang ở kinh đô nghe tiếng chim đỗ vũ (chim đỗ quyên) hót, lòng bâng khuâng nhớ về quê cũ vì thời gian trôi nhanh quá. Ở kinh đô này lại nhớ kinh đô xưa - kinh đô của ký ức một thời đã xa đã vĩnh viễn mất đi chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ khi nghe tiếng chim kêu báo hiệu mùa hè. Vì sao lại thế ? Kinh đô bây giờ là Edo thành phố thị dân đang say sưa với nhịp sống phồn hoa đô hội. Nhiều thứ văn hóa cổ xưa dần bị mất đi thay vào đó là “văn hóa thị dân”. Cuộc sống “phù thế” làm con người chỉ biết hiện tại, quay lưng lại với thần linh xưa cũ. Trong xã hội ấy, Basho cảm thấy cô đơn lạc loài nên ông tìm về “con đường sâu thẳm” trên “những bước đường phiêu lãng”. Basho nhớ về kinh đô xưa. Trên đường đi, nơi nào Basho từng ghé qua là nơi đó là quê hương của ông. Đất khách mười mùa sương về thăm quê ngoảnh lại Edo là cố hương. Thật vậy, Basho sinh ra ở Ueno, nhưng trong ông Edo là quê hương thứ hai. Trên hành trình từ đất khách xa xôi về thăm quê, ông ngoảnh lại thấy Edo thân thiết như quê hương mình vì ông đã từng sống ở Edo mười năm. Tình cảm này của Basho làm ta nhớ đến bài thơ Độ Tang Càn của Giả Đảo (Trung Quốc). Khách sá Tinh Châu dĩ thập sương Qui tâm nhật dạ ức Hàm Dương Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy Khước vọng Tinh Châu thị cố hương. (Ở nhà khách Tinh Châu trải mười năm, Hôm sớm Hàm Dương chỉ nhớ cố hương Không biết vì sao qua bến Tang Càn nọ, Ngoảnh lại Tinh Châu (thấy) đã là quê hương.) và câu thơ của Chế Lan Viên (Việt Nam) trong bài Tiếng hát con tàu Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn ! Tình yêu quê hương của các nhà thơ thật là sâu lắng mặn nồng. Basho thoảng nghe tiếng chuông cũng tưởng đó là tiếng chuông ở ngôi đền nào đó của quê hương, không biết là đền Ueno hay đền Asakusa. Hoa đào như áng mây xa chuông đền Ueno vang vọng hay đền Asakusa. Tiếng chuông lòng lúc nào cũng vang trong ông. Tình yêu quê hương của Basho cũng thật dịu dàng mà thâm trầm sâu lắng như tiếng chuông, như “áng mây hoa” như “hương hoa” quê hương luôn luôn đẹp trong trái tim nhà thơ. Ở cố đô Nại Lương hoa cúc và tượng phật cổ ngạt ngào hương. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Tình yêu quê hương của nhà thơ mang chút màu sắc thiền tông pha với mỹ cảm truyền thống của người Nhật Bản. Nên đọng lại trong ông của sự cô đơn hư không và tiếng reo vui khi gặp cuộc sống thanh bình. Tình yêu quê hương ẩn hiện trong niềm vui khi Basho nhìn thấy cuộc sống lao động bình dị của người nông dân. Đi hái cải củ cậu bé con kia được ngồi lưng ngựa. Đó là hình ảnh em bé sung sướng khi được “ngồi lưng ngựa”. Hay hình ảnh Người chèo thuyền ống điếu ngậm trong miệng gió mùa xuân lên. Một người nông dân trên đồng Trên đồng mùa hạ nhìn người vác cỏ tôi lần đường đi. Tiếng rao người bán cá hòa điệu nên điệp khúc mùa hè. Tiếng rao người bán cá hòa trong tiếng chim cu vang vang mùa hạ. Hay hình ảnh của một em bé dù làm việc mệt nhọc vẫn ngắm trăng. Đó là tình yêu thiên nhiên và hướng đến với thiên nhiên. Em bé nhọc nhằn trong khi xay gạo vẫn nhìn lên trăng. Những cuộc sống bình dị, đơn sơ, cơ cực của người dân lao động nghèo trên quê hương ông đi qua đã để lại trong ông bao tình cảm mặn nồng về hình ảnh của quê hương. Basho càng nhớ quê hương ông càng giấu kín trong thơ. Trong nỗi nhớ, Basho còn nhớ về gia đình người thân. Đó cũng là hình ảnh bé nhỏ của quê hương trong ông. Chính tình cảm ấy là sợi dây kết ông với người thân, gia đình và quê hương. Trên bước đường du hành, ông quay lại thăm quê thăm bạn bè hay nhớ họ trên đường đi Mùa thu âm u người hàng xóm ấy sống như thế nào ? Mùa thu về, nhà thơ nhớ về người hàng xóm đã bao năm xa cách không biết bây giờ người ấy sống ra sao ? Nỗi nhớ của bài thơ chỉ có thế. Nhìn mùa xuân qua hình bóng cố nhân ở quê cũ Omi cũng đọng trong trái tim ông. Mùa xuân qua đi sao cứ nhớ mãi người ở Omi. Nhưng có nỗi nhớ thâm trầm sâu lắng vào mùa thu, ông về thăm quê và hay tin người mẹ kính yêu đã qua đời. Gió bụi như ngừng thổi trong ông. Lệ trào nóng hổi trên tay tóc mẹ làn sương thu. Những giọt lệ nóng hổi của đứa con tha phương nay trở về rơi xuống bàn tay đang cầm một mớ tóc bạc - kỷ vật người mẹ hiền để lại - của người mẹ đã khuất, đọng lại như những giọt sương thu. Chẳng biết “sương thu” là vì nước mắt đọng trên mái tóc nhuộm màu sương của mẹ, hay nước mắt người con như sương mùa thu, hay cuộc đời như giọt sương thu sớm tan trong nắng gió cuộc đời. Sương thu là hình ảnh thiên nhiên đất trời. Mẹ mất đi như sương thu tan vào đất trời. Trong thiên nhiên đất trời có mẹ, mẹ mênh mông, bao la như thiên nhiên đất trời trong lòng nhà thơ. Bao nhiêu tình yêu đọng lại trong lòng nhà thơ bằng nỗi nhớ thăm thẳm sâu. Ngoảnh nhìn lại mình Basho cảm thấy mình già trước cuộc đời phù thế. Trong mùa thu này ta già biết mấy ôi chim và mây. Basho thấy mình đã già nhưng những giấc mơ rong ruổi theo chim và mây vẫn còn đó. Ước vọng ông trao cho cây liễu. Vì nhà thơ đã tìm thấy niềm vui, sự thanh thản khi kết bạn cùng cây liễu. Còn những bận bịu của cuộc sống (niềm vui và nỗi buồn), nhà thơ quên đi. Trao cho cây liễu mọi điều ước vọng mọi điều chán chê. Basho không nói mình cô đơn nhưng lại nói giọt sương cô đơn. Vì giọt sương nó rời rạc, ngắn ngủi sớm tan biến vào đất trời. Nó không giống giọt mưa liên kết thành dòng chảy. Dù thế nào đi nữa giọt sương vẫn cô đơn. Qua đó, ta vẫn thấy nỗi “cô đơn” của nhà thơ khi nhìn thấy sự cô đơn của giọt sương. Không bao giờ quên mùi vị cô đơn của giọt sương trắng. Dù Basho ngầm hiểu sự cô đơn, già nua của mình nhưng với ông đó chỉ là “vô thường” của vũ trụ. Ông ung dung về nó vì Làng chuông không ngân biết làm chi nhỉ những chiều mùa xuân. Basho sinh ra là để gắn với haiku gắn với “lữ nhân phù thế” nên ông càng phải đi để thực hiện ước vọng bay cùng chim và mây. Đến những đồng cỏ đầy hoa Vương trái tim tôi ngang con đường núi đồng thảo nở hoa tươi. 1.4. Thiên nhiên của tấm lòng thương cảm Trên bước đường phiêu lãng, Basho đi qua nhiều nơi, “từ những đô thị ồn ào náo nhiệt của những người thị dân… đến những cánh đồng khô cằn, những làng quê xơ xác của những người nông dân cơ cực đói nghèo”[8, trang 326]. Basho tận mắt nhìn thấy mọi thảm cảnh diễn ra ngay trước mắt mình. Ông ghi lại một cách lặng lẽ các sự việc vào những bài thơ haiku dung dị quen thuộc. Trong thơ ông có đủ hình ảnh của những kiếp người đau khổ, lầm than như: từ những người nông dân lam lũ, em bé nghèo sớm gặp bất hạnh, những người đánh cá, những cô gái bán thân, những người lính bỏ thây nơi chiến địa, cho đến những người bạn yêu thơ yểu mệnh… Trong một lần đi ngang qua một khu rừng vắng, Basho thấy một chú khỉ đứng co ro run lên vì lạnh trong mưa mùa đông. Trước cảnh đó, Basho ước gì có ngay một chiếc áo mưa cho chú khỉ bớt lạnh. Mưa đông giăng đầy trời một chú khỉ đơn độc cũng mong chiếc áo tơi. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Hình ảnh “một chú khỉ đơn độc” làm ta liên tưởng đến hình ảnh người nông dân, những em bé nghèo đứng co ro, run rẩy trong những cơn mưa giá lạnh. Bài thơ là tấm lòng thương cảm vô vàn của nhà thơ đối với những người cùng khổ và cả cỏ cây muông thú. Basho mượn hình ảnh của thiên nhiên để nói lên số phận của con người. Trong tuyết ban mai đôi mắt ta nhìn cả những con ngựa gầy. Cuộc sống nghèo khổ, người nông dân phải lao động vất vả từ những sớm ban mai trong tuyết giá rét với “những con ngựa gầy”. Hình ảnh “ngựa gầy” liên tưởng đến người lao động nghèo khổ gầy gò. Hay người lao động nghèo phải làm việc vất vả trong thời tiết khắc nghiệt của mùa hè nóng bức. Đó là những nguời bán cá cứ rao mãi trong ngày hè hòa vào tiếng chim cu tạo thành điệp khúc mùa hè. Tiếng rao người bán cá hòa trong tiếng chim cu vang vang mùa hạ. Lại một lần khác, khi đi ngang qua cánh rừng, Basho nghe tiếng vượn hú. Lòng nhà thơ gợi lên niềm thương cảm và nhớ đến tiếng khóc não lòng của một em bé bị bỏ rơi trong rừng. Lòng ông tái tê hay “gió mùa thu tái tê” ? Vượn hú não nề hay trẻ bị bỏ rơi than khóc ? gió mùa thu tái tê. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Tiếng vượn hú trong thơ Basho khác hẳn với tiếng vượn hú của Lí Bạch “Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận” (Tiếng vượn đôi bờ kêu chẳng dứt), hay tiếng vượn trong thơ Đỗ Phủ “Phong cấp thiên cao viên khiếu ai” (gió gấp, trời cao vượn nỉ non). Đó chỉ là tiếng vượn gợi lên nỗi buồn mơ hồ trống rỗng. Còn Basho là cả một tấm lòng thương cảm với những đứa trẻ bị vỏ rơi trong rừmg. Những đứa trẻ đó gọi là “mabiku” (tỉa bớt). Ngày xưa Nhật Bản trong những năm đói khổ, mất mùa, những gia đình nông dân nghèo đông con không nuôi nổi chúng, phải đem chúng bỏ vào rừng. Có khi, người ta còn giết cả những đứa trẻ sơ sinh. Tình thương trẻ thơ của Basho thật mênh mông sâu thẳm. Có những khi đi ngang khu rừng nghe mưa đá rơi ông gọi bọn trẻ (tỉa bớt) tránh mưa. Xem kìa bé ơi hãy chạy nhanh đến mưa đá đang rơi ! Những đứa trẻ đoản mệnh ấy còn quá nhỏ có biết mưa đá là gì đâu ? Basho dành cho chúng cả tấm lòng từ bi vô tận. Tình yêu trẻ thơ của Basho cũng giống thi hào Nguyễn Du (Việt Nam) trong bài Văn chiêu hồn. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha Lấy ai bồng bế vào ra U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. Tình thương người của Basho thật bao la. Có lần Basho trọ chung quán với các du nữ. Nghe lời tâm sự của họ, niềm bi cảm trong lòng ông nổi lên nỗi xót thương cao cả. Ông đặt các du nữ bên cạnh trăng và hoa thu. Chung một mái trọ phòng bên những du nữ ngủ trăng và hoa thu. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Cùng dòng cảm xúc với ông, nhà thơ Busson cũng có bài viết về các du nữ đáng thương Hoa mơ tưng bừng bên lầu, du nữ mua sắm đai lưng. Trong mắt Basho các du nữ, trăng, hoa thu đều tồn tại trong một vũ trụ thuần khiết không có phân biệt. Cả ba đều có sự giống như nhau trong “vô thường”. Với Busson các du nữ cũng như mùa xuân, cũng trau chuốt cho mình. Hoa mơ và du nữ cùng tắm trong trời mùa xuân. Cuộc đời các du nữ chỉ là những kiếp lỡ làng nhưng sẽ đẹp như trăng như hoa thu, hoa mơ và như mùa xuân. Trong mắt Basho, những gì tồn tại trong vũ trụ này đều đẹp. Lòng thương cảm Basho còn dành cho cả những chiến binh gục ngã rồi mà “giấc mộng vẫn chưa thành”. Đó là những người lính chiến đã hi sinh nhưng giấc mộng được hạnh phúc lúc còn sống vẫn chưa thực hiện được. Nay sau khi đã chết rồi, họ vẫn còn ôm giấc mộng ấy bằng linh hồn từ cõi chết. Họ chết vì chiến tranh phi nghĩa. Còn người đời quá vô tình như chỉ trong một giấc mộng ngắn hơn cả giấc ngủ mà “cỏ mùa hạ ngút xanh”. Thiên nhiên, cỏ cây cũng vội vàng lãng quên. Cuộc sống này là vô thường. Mọi thứ rồi sẽ qua đi, biến đổi theo thời gian. Những chiến binh ngã xuống giấc mộng chưa thành cỏ mùa hạ ngút xanh. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Và đây là cảnh một gia đình đi viếng mộ người thân. Cả gia đình tóc đều bạc, phải chống gậy đi. Hẳn là người mất còn trẻ lắm. Basho cảm thômg cùng họ bằng niềm xúc động của “kẻ đầu bạc khóc người đầu xanh”. Chống gậy đưa chân cả gia đình bạc tóc đi viếng mộ người thân. Trong một buổi chiều rét Basho gặp con nhạn ốm đau rơi, lòng ông đầy thương cảm như đấy là một “lữ khách nào”. Tình thương ông dành cho cả những kiếp người tha phương. Con nhạn ốm đau rơi trong chiều rét ôi lữ khách nào. Một người bạn nhà thơ đã mất như “lá ngô đồng rơi”, làm động lại bao nỗi buồn trong nhà thơ. Vì nhà thơ cứ chờ đợi nhưng chẳng thấy bạn đâu ? Càng thấm thía nỗi buồn tan thương vì cái chết đến với con người, nhưng Basho chỉ xem như “lá ngô đồng rơi” như “trăng rụng”. Trăng rụng rồi bốn góc bàn quen thuộc còn lại mà thôi. Người bạn nhà thơ đã mất như “trăng rụng”. Chỉ còn lại bốn góc bàn quen thuộc nơi người ấy vẫn ngồi. Sự sống và cái chết đều ở thế giới vô thường trong vòng xoay vũ trụ. Đó là cảm thức bi cảm của aware. Basho trân trọng nâng niu từng khoảnh khắc ấy là mong manh và ngắn ngủi bằng cả tình thương và nỗi nhớ khôn nguôi. Tấm lòng từ bi bao la của Basho, tình thương của người với nhân thế mãi mãi vẫn ngưng đọng trong lòng người yêu thơ. Dù những bi ai mà Basho gặp trong đời đã qua rồi như Vầng trăng tan nhanh giọt mưa còn đọng đó đây trên cành. Giọt nước mắt thương người, thương đời của thiền sư Basho cứ rơi mãi như mưa dù hết rơi vẫn còn ngưng đọng trong từng câu chữ. Nên thơ haiku của Basho nó trầm lặng, sâu lắng thiết tha trong bí ẩn mơ hồ… Tóm lại, Basho thật sự là nhà thơ của tình yêu thương. Những bài thơ haiku của ông không chỉ là thơ của thiên nhiên mà nó còn là thơ về tình yêu thương về lòng con người. Hình ảnh trong thơ chất chứa những nỗi niềm bi ai sâu lắng. Thiên nhiên còn là nơi của những tấm lòng thương cảm thiết tha mà Basho dành cho người, cho đời.