Làm giúp em bai viết số 2 với ! đề cô ra nek < suy nghĩ của anh (chi) sau khi đọc xong bài thơ Thương Vợ cua trần tế xương

HELP ME ! HELP ME ! em dang rat can gap mong anh chi hay giup em voi 

 

djghjfdg
djghjfdg
Trả lời 12 năm trước

Bạn tham khảo bài sau nhé:

I/Mở bài

- Tú Xương là nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX đồng thời cũng là tác giả của những vần thơ trữ tình đằm thắm , thiết tha .

- “Thương vợ” là một sáng tác tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương.

- Bài thơ đã khắc họa chân dung bà Tú vất vả đảm đang , giàu đức hi sinh và bộc lộ sự cảm thông , lòng yêu thương trân trọng ngợi ca người vợ của nhà thơ .

II/Thân bài

1/ Giới thiệu chung

- Trong thơ trung đại Việt Nam , các nhà thơ –nhà nho ít khi viết về cuộc sống tình cảm đời tư của mình , càng hiếm khi viết về người vợ . Thơ văn xưa coi trọng mục đích giáo huấn , dùng văn thơ để dạy đời , tỏ chí “văn dĩ tải đạo” , “thi dĩ ngôn chí” , với những đề tài phổ biến như : chí làm trai , nợ công danh , chí kinh bang tế thế hoặc những ưu tư về thời cuộc …

- Cũng trong xã hội xưa , vị thế cảu người phụ nữ ít được coi trọng , thậm chí còn bị coi rẻ .

- Tú Xương thì khác . Ông có nhiều bài thơ viết về vợ với những câu đầy thương mến , hóm hỉnh :

“Có một cô lái , nuôi một thầy đồ ,
Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ”

Đây là lời đáp của bà Tú khi được ông Tú hỏi về câu đối vừa mới viết :

“ Thưa rằng hay thực là hay ,
Không hay sao lại đỗ ngay tú tài ,
Xưa nay em vẫn chịu ngài”

- Trong một loạt bài thơ Tú Xương viết về vợ , Thương vợ được coi là tác phẩm tiêu biểu hơn cả . Bài thơ thể hiện cả hai mặt trong thơ Tú Xương , vừa ân tình vừa hóm hỉnh .

- Thương vợ được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng ngôn ngữ rất sinh đọng tự nhiên , mang đậm sắc thái dân gian , mang nét riêng độc đáo của thơ Tú Xương .

2/ Hai câu đề :

Quanh năm buôn bán ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng .

- Câu thơ mở đầu cất lên thật tự nhiên , dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình ảnh và công việc làm ăn của bà Tú .

- Từ “quanh năm” diễn tả sự triền miên về thời gian , từ ngày này sang ngày khác , tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy , bất kể mưa nắng , sớm trưa . Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó , bà Tú phải miệt mài với công việc “buôn bán” . Đó chỉ là kiểu buôn thúng bán mẹt , lời lãi chẳng được bao nhiêu ở chốn đầu sông cuối bãi .

- Hai từ “mom sông” cụ thể hóa không gian làm việc của vợ ông Tú , đó là nơi có thế đất hiểm trở , là doi đất nhô ra , ba bề là nước , khá chênh vênh nguy hiểm .

- Tú Xương đã quan sát , thấu hiểu cho nỗi vất vả của người vợ . Bởi vậy , ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông , thương mến sâu lắng . Với người vợ , một lời cảm thông như vậy của chồng cũng đủ để bù đắp cho bao nỗi đắng cay .

- Câu thơ thứ hai nêu lên căn nguyên sự vất vả của bà Tú . Bà phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề “ nuôi đủ năm con với một chồng” . Phải chăm sóc , nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi . Vậy mà bà còn phải nuôi thêm cả đức ông chồng . Ai cũng biết ông Tú tài cao nhưng phận thấp , thành ra ông chí khí uất . Tám lần ông đi thi chỉ mong bia đá bảng vàng nhưng rút cục đi không lại trở về không bởi thơ văn ông quá sắc sảo . Ông lại phải hằng ngày chứng kiến bao cảnh trái tai gai mắt “ con khinh bố”, “vợ chửi chồng” , bao điều lố lắng của xã hội dở ta dở tây đương thời . Tú Xương luôn day dứt về sự đời ô trọc . Cảnh chung niêm riêng khiến ông Tú rất kĩ tính , khó tính . Ấy vậy mà bà Tú vẫn “ nuôi đủ” . Công lao to lớn của bà nằm ở hai chữ “nuôi đủ” này . Bà Tú thắt lưng buộc bụng , tần tảo quanh năm không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về vật chất của một đại gia đình đông đảo mà bà còn phải sống lựa , chăm lo cho nhu cầu tinh thần vốn cao sang , tài tử của ông Tú . Sự đảm đang , khéo léo cảu bà thể hiện ở việc lựa ông Tú mà sống , khéo chiều sự khó tính khó nết của ông sao cho trong ấm ngoài êm .

- Hai câu thơ đầu đã đặc tả sự nhẫn nại , đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình . Qua đó nhà thơ gián tiếp bày tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình .

3/Hai câu thực

Lăn lội thân cò khi quãng vắng ,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông .

- Hai câu thơ đã cụ thể hơn tính chất , đặc thù công việc cảu bà Tú . Cách đảo ngữ “ lặn lội thân cò” , “ eo séo mặt nước” tô đậm chân dung cực nhọc , lam lũ , bươn chải của bà .

- Nhà thơ mượn hình ảnh ẩn dụ “thân cò” trong ca dao để ví von với thân phận , cuộc đời người vợ của mình . Con cò trong ca dao cực khổ , bất hạnh vô cùng :

“ Cái cò lặn lội bờ sông –Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
“Cái cò đi đón cơn mưa – Tối tưm mù mịt ai đưa cò về”
“ Cái cò mà đi ăn đêm – Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

- Nhà thơ đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận của những người lao động vất vả , lam lũ . Thân cò còn gợi dáng vẻ bé nhỏ , gầy gò , đáng thương tội nghiệp của người vợ ông Tú .

- Bà Tú bé nhỏ yếu ớt thế mà phải một mình thân gái dặm trường , đi làm qua những nơi “ quãng vắng” . Khi khỏe thì không sao nhưng khi trái gió rở trời , sảy chân bất kì thì không biết bà Tú sẽ gặp nguy hiểm chừng nào . Thế mới thâm thía câu ‘Buôn có bạn , bán có phường” . Câu thơ mang sức nặng của tấm lòng thương cảm mà ông Tú dành cho vợ .

- Bà Tú không chỉ dấn thân những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những chuyến đò đông , phải chịu những tiếng “eo sèo”, những lời qua tiếng lại cò kè mặc cả , có lườm nguyt chê bôi xô bồ . Đò đông gợi ra sự hiểm nguy , xô đẩy , chen chúc . vậy là “ cô gái nhà dòng” vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân quên đi lời mẹ dặn “ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua” , phải lăn lôn giữa chốn đời phàm tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình .

- Hai câu thơ chú trọng vào việc miêu tả nỗi vất vả , sự đảm đang của bà Tú . Ẩn sau câu chữ vẫn là tấm lòng nhà thơ với cái nhìn thương cảm , ái ngại , biết ơn , trân trọng .

4/Hai câu luận

Một duyên hai nợ âu đành phận ,
Năm nắng mười mưa dám quản công .

- Hai câu luận là lời ông Tú nhập thân vào bà Tú để than thở giùm vợ . Nhà thơ dùng nghệ thuật đối , các khẩu ngữ và những thành ngữ dân gian “ một duyên hai nợ” , “năm nắng mười mưa” , “ âu đành” , “dám quản” để bộc lộ nỗi lòng ấy .

- Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian , duyên là đieuf tốt đẹp , là sự hòa hợp tự nhiên , còn nợ là gánh nặng , là trách nhiệm mà con người ta bị vướng mắc phải . Duyên là sự may mứn , còn nợ là sự rủi ro . Ở đây , khi lấy ông Tú , may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi , tức là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều .

- Dù vậy , bà coi đó là cái phận , cái định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình . Vì thế , bà cam chịu , chấp nhận , không kêu ca mà âm thầm chịu đựng . Bà sẵn sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn tăng cấp chồng chất , bà dám “ quản công” , tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình .

- Hai câu thơ như một tiếng thở dài của bà Tú . Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng , vượt lên . Phảo chăng đó cũng chính là đức hi sinh – vẻ dẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam ?

5/Hai câu kết .

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

- Hai câu thơ vẫn là lời Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi , để rủa chính thói đời bạc bẽo , trách cứ sự vô tích sự của mình .

- Thói đời là những nếp cư xử ,hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải . Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ , là thói vô tâm cảu các ông chồng với vợ . Thói xấu ấy cũng đã thấm vào người ông Tú , khiến ông ăn ở bạc với vợ , sống thiếu trách nhiệm , đổ mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ . Như vậy , ông Tú không chỉ chửi chung thói đời mà còn chửi chính bản thân mình .

- Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của Tú Xương . Nhà thơ dùng lời ăn tiếng mói của dan gian “ cha mẹ” – một cách chửi có gọng điệu chanh chua nanh nọc , gay gắt , quyết liệt , lôi cả gốc rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi . Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương .

- Câu thơ cuối cùng là một lời rủa . Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ hững thì còn tệ hơn cả không có chồng . Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng mà sống vô tích sự , vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi .

- Hai câu thơ cuối là một cách chuộc lỗi đặc biệt của nhà thơ với vợ . Lời thơ giản dị pha lẫn nụ cười trào phúng mà vẫn chân chất , thấm thía tấm lòng thương vợ đáng quy trọng .

III/ Kết bài .

- Thương vợ là bài thơ ngắn gọn , súc tích , có ngôn ngữ giản dị , giọng thp ân tình , hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm đang , chịu thương chịu khó , giàu dức hi sinh vì chồng con , mang vẻ đẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam .

- Tác phẩm cũng bộc lộ sự cảm thông , trân trọng biết người vợ sâu sắc của nhà thơ Tú Xương .

- Đây là bài thơ tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương .

djghjdgh
djghjdgh
Trả lời 12 năm trước

Trần tế xương là một nhà thơ nam định, sinh ra trong khoảng thời gian đầy biến động khi triều nhà nguyễn bị mục ruỗng trầm trọng, đất nc bị khóa trong vòng lệ thuộc và nhân dân khổ cực bao điều , những điều tai nghe mắt thấy đã hình thành nên con ng trần tế xương đầy thẳng thắn dám đánh thẳng vào cái khía cạnh tối của xh đương thời qua những tác phẩm thơ theo dòng trào phúng mà trữ tình đã trỡ thành bất hủ, với giọng cười khinh bạc mỉa mai chua chát lẫn vào đấy là nỗi đau xót qua từng giọt nc mắt.Và bài thơ “thương vợ” với thể thơ thất ngôn bát cú đừơng luật là điển hình cho các sàng tác trữ tình giàu tc của ông dc viết nên từ tất cả những xót xa thương yêu mà ông dành cho ng vợ.

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Có chồng hờ hững cũng như không.

Cuộc đời nhà thơ đối mặt bao lần thất bại trên con đừơng công danh, phải ở nhà và nhìn ng vợ thương yêu ngày ngày tần tảo làm lụng nuôi chồng con, tuy đau và tủi hổ lắm chứ nhưng đành bất lực và nhà thơ bây giờ chỉ biết gửi gắm tâm sự qua những vần thơ hiện hữu hình ảnh ng vợ trong đấy

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Bằng những lần quan sát, nhà thơ thấy dc nh khó nhọc mà bà tú phải chịu đựng. Mang danh phận là bà tú nhưng mỗi ngày lại phải buôn bán ở không gian chật hẹp “mom sông” quanh năm suốt tháng, nỗi cơ cực oằn trên vai ng vợ. Hình ảnh ng phụ nữ tần tảo đi buôn đi bán cũng vì chồng vì con, tấm lòng hi sinh ấy cao cả và đáng quí biết bao cũng vì tình yêu gia đình rất đỗi thiêng liêng hiện hữu trong tim bà tú. Tuy mệt nhọc và gian truân là thế nhưng trách nhiệm vẫn làm tròn là khi “nuôi đủ” năm đứa con và chồng.Gánh nặng ấy quả là quá lớn. Hiểu và khâm phụ tấm lòng bà tú, ông tú tự nhìn mình mà mỉa mai khi đặt chồng ngang hàng như đứa con thứ 6 của bà tú, một sự khinh thừong chính bản thân vì suốt ngày là kẻ dựa dẫm.Xấu hổ và ray rứt là những trạng thái xuất hiện làm ông tú rối bời khi không thể đỡ đần dc nh lo toan vất vả cực nhọc ấy cho vợ .thê nên không biết tự lúc nào bà tú hóa thành thân cò trong thơ ông tú, là một hình ảnh dan gian khá quen thuộc để tăng thêm nỗi vất vả đeo bám dai dẳng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nứoc buổi đò đông

Thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ gợi nỗi đau thân phận mà thân cò phải chịu theo thời gian cũng giống như bà tú đang nếm trải vị đắng của nỗi khó nhọc, chôn danh phận nơi “quãng vắng” có lúc nỗi cô đơn hẩm hiu bủa vây đến tủi lòng. “lặn lội” từ láy sử dụng gói gọn trong đấy là những gì gian truân nhất, khó nhọc nhất khiến bà tú phải gồng mình bươn chải qua ngày tháng. “quãng vắng” đối lập “đò đông” gợi tả không gian xung quanh bà tú theo dòng thời gian nhanh thoan thoắt, lúc như hành hạ trong nỗi cô đơn tủi hờn, có lúc tất bật bởi bao lời ăn tiếng nói bán buôn khi đò đông lên thì phải lẹ làng mặc cả buôn bán kiếm cái ăn đâu chỉ cho riêng mình cũng giống như

“con cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

Còn bà tú dẫu mệt mỏi bởi việc kiếm nuôi gđ nhưng có bao giờ buông lời than thở trách cứ, ko một lời than phiền giống tiếng khóc nỉ non của cò đâu, dừờng như nỗi u buồn nén chặt bởi sự hi sinh đức độ là trái tim đầy yêu thương , điều đó càng làm cho sự cảm thông và ái ngại dâng đầy trong suy nghĩ nhà thơ.Số phận bà tú bây giờ xoáy theo vòng đời xuôi ngựơc bon chen tìm nh gì có thể nuôi sống gđ trong đó có ng chồng bất tài.Câu thơ này nhà thơ khéo léo mựon hình ảnh dân gian cùng biện pháp đảo ngữ tạo giọng thơ man mác buồn hay ray rứt mãi. .Những hình ảnh đó của bà tú làm dấy lên trong lòng nỗi niềm xót thương vô hạn, bên cạnh đó là lòng biết ơn tri ân đến bà tú

Tiếp theo những câu thơ giàu hình ảnh đó nhà thơ theo dòng suy nghĩ:

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mừoi mưa dám quản công

Thành ngữ “một duyên hai nợ” dc dùng để nhà thơ ví von cho cuộc hôn nhân của ông và bà tú.Đựoc lấy nhau đó là điều hạnh phúc nhưng duyên chỉ 1 mà nợ đến hai, khi lấy ông tú thì bà tú phải chịu nhìều khó nhọc, hạnh phúc đến từ chồng thì quá ít.Dẫu thế nhưng “đành phận” vì đó là bổn phận là trách nhiệm, cái đẹp ở tấm lòng bà tú còn là biết chịu thương chịu khó nhẫn nhịn và chịu đựng. Thành ngữ “năm nắng mừoi mưa” thì lại đan xen vào sự chịu khó và vất vả, làm việc quanh năm chịu nhìu nắng mưa dãi dầu, có những lúc muốn khô héo theo cái nắng gắt trưa hè, có lúc buốt giá quá đỗi dứơi con mưa đầu mùa ko dứt nhưng có khi nào bà tú nản lòng và than vãn.Bởi những khó khăn thử thách ko đủ để làm mờ đi tình thương yêu gia đình chồng con trong bà tú. Mệt nhọc đủ điều vậy mà ng chồng đáng lẽ là nơi nương tựa lại trở thành cái bóng âm thầm dõi theo những khó khăn của vợ mà thôi, ông tú như vô tình gửi nhờ gánh nặng lên vai ng vợ còn mình thì suốt ngày hưởng lạc và mải vui chơi:

“Biết thuốc lá, biết chè tàu

Cao lâu biết vị hồng lâu biết mùi”

Trứoc mắt ng đọc cũng phản ánh dc một sự bất công trong gd giữa chế độ xhpk ấy, hình ảnh bà tú là ví dụ cho hầu hết nh ngừoi mẹ ng vợ đảm đang cần mẫn làm việc, vắt kiệt sức mình ra mà gồng gánh trách nhiệm, đôi vai bé nhỏ của họ hàng ngày phải chống chọi nắng sương, gian lao mà chồng thì như ông chủ chỉ chờ dc chăm lo tươm tất rồi bước ra đường vui chơi, mấy ai thấy và hiểu dc những gì mà ng vợ đang cố hết sức xây dựng lấy, họ luôn mong mỏi gd sẽ là nơi nương tựa và họ yêu thương gd hết mực chính vì lí do giản đơn đó mà qua bao dãi dầu họ vẫn ko rũ bỏ trách nhiệm. Ông tú tuy là 1 trong số nh ng chồng như thế nhưng ở đây tư tưởng tiến bộ hơn, ông thấy dc và biết dc thế nào là khó khăn mệt nhọc, và thấy dc nh tấm lòng hy sinh cao cả của ng vợ và đưa thẳng nh gì tai nghe mắt thấy vào thơ của mình với thái độ hết sức trân trọng.Thấy thế và nhìn lại những gì mình làm dc, bất giác ông tú tự trách mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Buông lời chửi chính mình sao quá bất tài và nhu nhựơc chẳng khác gì một kẻ yếu đuối là gánh nặng trên vai ng vợ, tú xương chửi chính mình vô dụng tiếp đó là chửi thẳng vào cuộc đời mang đến cho bà tú nhìều nổi đắng cay quá,chua xót quá.Mắt nhìn thấy những gì oằn trên vai vợ nhưng ko làm dc gì để gánh hộ, nỗi hối hận và nhục nhã chan chứa trong hai câu thơ. Ko chỉ thế thái độ phản ứng mạnh lẽ đó của tú xương cũng chĩa vào cái xhpk đang đè nén hạnh phúc, bóc lột sức lao động, trói chặt nh ng phụ nữ trong những qui định lễ giáo khắt khe lỗi thời.Lời trách rất đỗi chân thành xuất phát từ trái tim để rồi đi đến chế giễu cái vô tích sự của mình làm giọng thơ như trào phúng, cừơi đó rồi khóc đó. Độc đáo trong bài thơ này đó chình là hình tượng ng phụ nữ hóa thân thành thân cò gợi nhiều nỗi thương cảm.Bài thơ thành công trong việc xây dựng dc hình tượng mới mẻ bất ngờ, đưa ng phụ nữ vào thơ ca là nét tiến bộ trong tư tửong của tú xương.Cách sử dụng tiếng việc tự nhiên , giàu sức biểu cảm vận dụng dc những cách nói dân gian.

Giọng thơ trong bài “ thương vợ dâng trào một niềm cảm thương sâu sắc tha thiết đối với vợ.Hình ảnh bà tú chiếm trọn tình cảm của bao ng đọc thơ tú xương. Với tất cả niềm thương yêu trân trọng ông khéo léo đưa ng vợ vào thơ của mình âu đó cũng là niềm vui bù dắp cho bao tháng ngày vất vả.Tâm sự với những đắn đo trăn trở cho thận phận nhiều long đong trong thi cử dàn trải các câu thơ , qua đó nét hay nét đẹp dc cảm nhận thấm dần vào suy nghĩ ng đọc.