Đằng sau sự biến động của vàng và đô-la?

tun cua di
tun cua di
Trả lời 13 năm trước

Kể từ đợt biến động dữ dội vào cuối thập niên 1980 sau cú sốc Giá – Lương - Tiền năm 1985, chưa bao giờ thị trường vàng và đô-la ở Việt Nam lại nóng như hiện nay.

Nhiều người có tiền đang trú chân vào hai loại tài sản này để đảm bảo rằng của cải của mình ít bị hao hụt nhất thay vì bỏ vốn làm ăn để tạo thêm của cải cho xã hội.

Tại sao lại như vậy?


Câu trả lời ở đây là chính là lòng tin và kỳ vọng vào khả năng sinh lời của đồng tiền.


Chúng ta biết rằng, khi kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường kinh doanh tốt thì người dân sẽ bỏ vốn ra làm ăn để đồng tiền của mình sinh lời. Kết quả là nền kinh tế sẽ tăng trưởng tốt và cả xã hội khấm khá lên.


Ngược lại, khi bất ổn vĩ mô xảy ra, đồng vốn sẽ được chuyển vào những tài sản ít có khả năng hao hụt nhất thay vì được đưa vào hoạt động kinh doanh. Hậu quả là những bất ổn vĩ mô sẽ trầm trọng hơn và cả xã hội bị thiệt hại.


Những gì đã và đang xảy ra ở Việt Nam kể từ khi Đổi mới đến nay cho thấy rất rõ điều này.

Thống đốc NHNN với bài tòan khó từ thực trạng kinh tế
Thống đốc NHNN với bài toán khó từ thực trạng cấu trúc nền kinh tế. Ảnh: Tuổi trẻ

Khi cuộc khủng hoảng kinh tế hết sức trầm trọng, được kích hoạt bằng sự kiện đổi tiền năm 1985, nổ ra, nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn. Nhiều người đã “tị nạn” khỏi tiền Đồng bằng cách mua bất kỳ thứ gì có thể. Lúc này, thị trường vàng và Đô-la hoạt động hết sức sôi động cho dù việc mua bán ngoại tệ bị cấm.


Hậu quả là kinh tế xã hội Việt Nam ở thời điểm bấy giờ rơi vào tình trạng hết sức rối ren, ai cũng cảm thấy bất an, nhất là trong bối cảnh khối xã hội chủ nghĩa đang bị tan rã và sụp đổ.


Rất may là chính sách đổi mới được bắt đầu tư Đại hội VI của Đảng không chỉ giúp Việt Nam thoát khỏi một cuộc khủng hoảng trầm trọng mà còn đưa kinh tế nước nhà sang một trang mới với những thành công hết sức ấn tượng.


Sau những vấp váp ban đầu, các chính sách kinh tế dần được điều chỉnh đúng hướng, tiền tệ và chi tiêu công được thắt chặt, tỷ giá chính thức được điều chỉnh sát với giá thị trường hơn. Kết quả là một thập kỷ sau đó, Kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng và đạt được mức tăng trường cao với môi trường kinh doanh được cải thiện đáng kể.


Trong giai đoạn này, tuy vàng và đô-la vẫn là những tài sản được ưa chuộng, nhưng vai trò của chúng đã giảm đi đáng kể cho dù thị trường này một lần nữa sôi động trở lại vào những năm 1997-1998 khi những lo ngại nảy sinh từ cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực.


Sau khi tỷ giá đồng tiền đã được điều chỉnh một lần nữa, các chính sách kinh tế chủ yếu tập trung vào ổn định vĩ mô và cải thiện môi trường kinh doanh đã giúp cho kinh tế vĩ mô của Việt Nam hết sức ổn định trong một thập kỷ tiếp theo và môi trường kinh doanh ngày một thông thoáng hơn.


Đỉnh điểm của sự thăng hóa chính là giai đoạn 2006 - 2007, khi việc chuyển giao lãnh đạo Đất nước được nhiều người kỳ vọng và Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới.

Ở thời điểm này, vai trò của vàng giảm rõ rệt mà nó thể hiện rõ nhất qua việc mất đi thói quen định giá bất động sản bằng vàng. Hơn thế, khi các điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng cao thì trong nước người dân bỏ vốn kinh doanh và dòng vốn nước ngoài dồn dập chảy vào. Kết quả là đồng USD có dấu hiệu mất giá so với tiền VND.

Thị trường và niềm tin bùng nổ và khi đó phần lớn người Việt đều kỳ vọng vào một tương lai xán lạn hơn trong một tương lai gần.


Lúc này, ai cũng muốn có tiền đồng để đưa vào hoạt động kinh doanh hay triển khai các cơ hội đầu tư mà ít ai muốn găm giữ đô-la hay tích trữ thêm vàng.


Tuy nhiên, có thể nói những trục trặc trong việc ứng phó với dòng chảy bất thường của dòng vốn “ngoại” chảy vào, chi tiêu ngân sách và đầu tư công quá mức cộng với cú đánh bồi của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã đưa kinh tế Việt Nam vào tình trạng bất ổn như hiện nay.


Hành động hợp lý của tất cả mọi người trong một môi trường bất ổn là tìm cách bảo toàn tài sản của mình thay vì hăm hở bỏ vốn làm ăn với mong muốn tiền đẻ ra tiền như bối cảnh môi trường vĩ mô ổn định.


Tóm lại, ổn định vĩ mô là một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến sự thành công của nền kinh tế. Khi nhìn vào các nền kinh tế Đông Á đã gặt hái được những thành công cho đến ngày nay, hầu hết mọi người đều nhìn vào mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Tuy nhiên, ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn mà các nước này có được tăng mức tăng trưởng cao là ổn định vĩ mô và giảm dần sự can thiệp cũng như sự tham gia của nhà nước.


Dựa vào những gì đã xảy ra ở các nước trên thế giới và thực tiễn trong hơn 20 năm qua, theo quan điểm của người viết bài này là Việt Nam nên đặt mục tiêu hàng đầu là ổn định vĩ mô và cải thiện môi trường kinh doanh ít nhất trong một vài thập kỷ tới. Nếu điều này được đảm bảo thì niềm tin sẽ được phục hồi và người dân sẽ bỏ vốn ra kinh doanh thay vì cất giữ như hiện nay.


Có lẽ đây là cách khoan thư sức dân hiệu quả nhất.

gfhfghgg
gfhfghgg
Trả lời 13 năm trước

Khi kinh tế có dấu hiệu bất ổn, mục tiêu đề ra phải thống nhất, thông tin chính xác và minh bạch, chính sách cần nhất quán để phát đi tín hiệu rõ ràng nhằm ổn định thị trường và tâm lý người dân. Song, điều đó dường như chưa thể hiện rõ, ngay cả trong thời điểm nóng bỏng nhất.

Ngay tại buổi họp thông báo các giải pháp cấp bách điều hành kinh tế mới đây, ông Lê Đức Thúy - Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, nhấn mạnh, một trong những biện pháp quan trọng để bình ổn thị trường chính là thông tin chính xác và minh bạch để định hướng và tạo niềm tin cho dân.


Tuy nhiên, ngay trong vụ việc nay, cả hai cơ quan quan trọng nhất về điều hành và giám sát tiền tệ đã mâu thuẫn nhau. Hơn thế, tại cuộc họp báo Chính phủ ngày 6/11, mọi mục tiêu điều hành lạm phát từ trước đến nay đã không còn được nhắc đến, mà còn thêm một mức mới cũng với thái độ đầy quyết tâm thực hiện như những lần trước.


Biết tin ai?


Ông Lê Đức Thúy nói trước báo giới rằng, trong vòng 15 ngày đầu tháng 10, tiền gửi tiết kiệm bằng VND của người dân giảm đến 45.000 tỷ đồng so với cuối tháng 9, tương đương hơn 2 tỷ USD.


Trong chiều ngược lại, tiền gửi ngoại tệ lại tăng lên. Nếu như cuối tháng 9, số dư tiền gửi ngoại tệ thấp hơn số dư cho vay ngoại tệ khoảng 40.000 tỷ, thì trong 15 ngày đầu tháng 10, số chênh lệch này chỉ còn 20.000 tỷ, tức tiền gửi ngoại tệ đã tăng 20.000 tỷ từ trong nước. Người dân đã rút VND để mua ngoại tệ hoặc mua vàng, một số cất trữ, và cả gửi lại ngân hàng dưới hình thức ngoại tệ


Nhưng ngay sau đó, Ngân hàng Nhà nước lại chính thức khẳng định, một số báo đưa tin về số dư tiền gửi tiết kiệm VND là không chính xác. Thực tế, tiền gửi tiết kiệm bằng VND của dân cư tại hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục tăng.

Mô tả ảnh.
Thông tin nhiễu loạn ngay cả trong thời điểm nóng bỏng nhất. (Ảnh:kinhte24h)

Ngân hàng Nhà nước đã công bố số liệu thống kê chính thức để chứng minh, nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục tăng.


Trong đó, tiền gửi tiết kiệm bằng VND của dân cư đến ngày 15/10 tăng 0,64% (gần 5.400 tỷ đồng) so với ngày 30/9/2010; và đến thời điểm hiện tại, tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của dân cư tại hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục tăng. Vì vậy, thông tin mà một số tờ báo đăng tải là thiếu chính xác.


Cũng trong diễn biến về điều hành chính sách tiền tệ những ngày vừa qua, về điều hành lãi suất, ông Lê Đức Thúy tuyên bố, Chính phủ không đặt vấn đề giảm lãi suất và cho phép các ngân hàng thương mại được huy động và cho vay theo cơ chế thị trường.


Tuy nhiên, trong buổi họp với Hiệp hội Ngân hàng và đại diện của nhiều ngân hàng thương mại lớn ngày 5/11, do Ngân hàng Nhà nước chủ trì, khi có những đề xuất về việc đồng thuận một mặt bằng lãi suất huy động VND mới là 12% thay cho mức 11% một năm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã đề nghị Hiệp hội Ngân đứng ra điều phối việc thực hiện.


Điều này lại gây ra những thông tin khác nhau về sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trong thực hiện lãi suất mới.


Sau đó, một quan chức Ngân hàng Nhà nước phát biểu, đó là quyết định của các thành viên Hiệp hội Ngân hàng, và cơ quan quản lý không can thiệp!.


Tuy vậy, nhưng những nghi ngờ can thiệp của cơ quan quản lý về tính thị trường chưa thể tan hết. Bởi vì, chỉ cách đây hơn nửa tháng (từ 15/10), chính các ngân hàng thương mại đã chịu rất nhiều sức ép để tiếp tục giảm thêm "mấy phân" lãi suất, đưa lãi suất huy động VND về 11%. Dù lúc đó, lạm phát tháng 9 và 9 tháng đã lên rất cao, những dấu hiệu cho thấy lạm phát tháng 10 tăng mạnh là khá rõ ràng.


Câu hỏi đặt ra: Có phải các ngân hàng thương mại không nhận biết, nhận định sai hay vì một sự can thiệp nào?


Trước đó, đã có rất nhiều nhận định, sức ép giảm lãi suất lớn, trong khi lạm phát đang tăng lên đã làm méo mó thị trường tiền tệ, giảm uy tín đồng Việt Nam.


Chưa hết, tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ, một mức lạm phát mới đã được tuyên bố thay cho tất cả những mục tiêu trước đây là kiểm soát lạm phát ở mức một con số. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, Chính phủ sẽ thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt để kiểm soát và giữ lạm phát năm nay ở mức một con số


Như vậy, không có một con số cụ thể nào được đưa ra nhưng những mục tiêu 7% được Quốc hội thông qua, rồi 8% được Chính phủ đề ra sau đó đều đã bị vượt qua. Một năm, 3 lần thay đổi mục tiêu vĩ mô về lạm phát.


Thông tin nào cho sự ổn định?


Ông Lê Đức Thúy cũng thừa nhận, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao đáng báo động, thậm chí vượt qua một con số là đã vỡ một mục tiêu quan trọng. Chúng ta nói ưu tiên ổn định vĩ mô, mà mục tiêu quan trọng là lạm phát, lại tăng cao.


Thực ra, điều này từng được nhiều người cảnh báo từ rất sớm. Hồi đầu tháng 10, ông Võ Trí Thành - Viện phó Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ, đã dự báo về những nguy cơ từ diễn biến mới về lạm phát, cũng như những rủi ro kinh tế vĩ mô Việt Nam đang đối mặt.


Ông Thành đưa ra quan điểm là chính sách tiền tệ cần phải tiếp tục thắt chặt. "Chúng ta không thắt chặt đến mức bóp nghẹt nền kinh tế, nhưng thông điệp cho thị trường phải rất rõ ràng là: Việt Nam phải lấy ổn định vĩ mô làm trọng", theo ông Thành.

Mô tả ảnh.
Không có sự nhất quá và chính xác, người dân mất niềm tin. (Ảnh:chungkhoanvn)

Ngân hàng ADB cảnh báo, những rủi ro bên trong của nền kinh tế Việt đã làm giảm những nỗ lực để ổn định nền kinh tế vĩ mô, đưa lạm phát vào quỹ đạo mới với xu hướng tăng cao và gây áp lực đối với cán cân xuất nhập khẩu.


Những biến động trên có thể làm xói mòn niềm tin của người tiêu dùng và các nhà kinh doanh, dẫn tới hậu quả bất ổn định kinh tế vĩ mô. Không ổn định kinh tế vĩ mô lại đặt ra yêu cầu thắt chặt chính sách tiền tệ và tài khóa hơn nữa - điều đó sẽ hạn chế triển vọng tăng trưởng của Việt Nam trong năm tới 2011.


Do vậy, vấn đề chủ yếu đối với Việt Nam bây giờ là các nhà hoạch định chính sách cần duy trì các chính sách một cách ổn định và nhất quán với nhau, đồng thời phải phổ biến, tuyên truyền các chính sách đó một cách hiệu quả tới công chúng và các nhà kinh doanh cho đến khi lạm phát đi vào quỹ đạo ổn định theo xu hướng giảm.


Đến thời điểm này, những thông tin đầu tiên về kinh tế quý III và dự báo cả năm, với chỉ số GDP tăng trưởng tốt và có thể vượt mục tiêu 6,5%, nên dòng thông tin lạc quan vẫn vượt trội.


Thậm chí, dù có nhiều cảnh báo từ thực tế lạm phát và những dự báo của các tổ chức kinh tế thế giới như IFM, WB, ADB đều cho rằng, tính theo năm, lạm phát của Việt Nam vào 8,5-9,5% thì các cơ quan chức năng Việt Nam vẫn khẳng định lạm phát sẽ được kiềm giữ ở mức 8%.


Hiện nay, khi mục tiêu kìm giữ lạm phát thất bại, một mức mới được đưa ra, nhưng dường như mối nghi ngờ trong dân chưa thể phá tan khi mục tiêu quan trọng này liên tuc thay đổi, kéo theo đó là sự mất ổn định về chính sách điều hành.


Hơn thế, ngay cả trong thời điểm nóng bỏng này, vẫn còn sự bất nhất giữa các cơ quan có trách nhiệm... về những thông tin quan trọng và nhạy cảm. Vậy đâu là sự nhất quán, chính xác và minh bạch để người dân đặt niềm tin?.

http://vef.vn/2010-11-07-dang-nuoc-s...ai-nhieu-loan-