Rất mong mọi người giúp đỡ :"> em xin cảm ơn trước
Chào bạn!
Bạn tham khảo bài này xem sao nhé:
A.Mở bài:
Nguyễn Minh Châu –người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.
B.Thân bài:
Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý,trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa,giờ đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào.Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng gười lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.
Tác phẩm không dừng lại ở đó,người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa” :Bước ra là một người đàn bà mệt mỏi,cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn, ác độc, coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc,hai hàm răng nghiến ken két..”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu, cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông ...liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”.
Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái,bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống sót xa.Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao).
Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình,tốt đẹp. Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện. Bề ngoài, đó là một người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa...Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng...phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.Người đàn bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông.Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy?!Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng,những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?
Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo. Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp, không dễ gì khám phá. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.
Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo. Lời kể trở nên khách quan, chân thật giàu sức thuyết phục.Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng lão đàn ông thô bỉ, lời người đàn bà xót xa cam chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
C.Kết bài:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời,nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ,dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
(Sưu tầm)
“ Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà
bất cứ một nhà văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là
năm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về
tư thế cầm bút, họ được tự do.
Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn
học đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn
đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào nhung nham đổi mới triệt để
của văn học nghệ thuật những năm sau đó. Cuộc bung trào nhung nham này
như là một nhu cầu nội sinh, xuất phát từ chính bản thân văn học, mặt
khác, từ chính những biến đổi lớn lao của đời sống xã hội. Nhà văn bắt
buộc phải kiểm soát những nhu cầu ấy, rời xa nó tức là chuốc lấy cho
mình con đường hẹp, mọi sáng tác chỉ như một phế liệu của nghệ thuật mà
thôi.
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học.
Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới
góc nhìn và phương tiện mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyễn Minh Châu
trước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức không chỉ
diễn ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như còn phải diễn ra
bằng nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối
trong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, đôi khi ông bất lực để lí giải,
lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượt
qua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên, rơi vào trạng
thái “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết
thương sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh
kia là khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá nhân; ai biết
được người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ,
của thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng như các nhân vật
kia, không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt
đồng nghĩa với thiêu rụi sự sống.
“Chiếc thuyền ngoài xa” nằm trong mạch sáng tác đòi hỏi cả độc giả và
nhà văn phải nhận thức lại hiện thực. Hiện thực bây giờ không đơn giản
là một vết xước rớm máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh niên
xung phong kia mà có lẽ, phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi cá
nhân là một chỉnh thể, một sở hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cất
nó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một hệ số bằng lòng.
Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi “săn” một tấm hình
chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ
thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và
quen thuộc. Phùng rời Hà Nội gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển,
nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Tâm thế
Phùng là sẵn sàng chờ đợi, anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở
vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnh
ngư dân đánh mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình để
đời, kiệt tác mà anh hằng mong muốn thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh,
qua cách hành xử của Phùng, ít nhiều là thứ quà tặng của thiên nhiên.
Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho: “trước mặt tôi là một bức
tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng
đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng
trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt
vào”. Những cảm xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp thiên
nhiên quả làm cho ta cảm động. Nó là niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng của
kẻ luôn sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ tinh thần mà mình hằng tâm
nuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “lên đồng”, một trạng thái cần có
trước lúc sinh thành những cảm xúc sáng tạo: “trong giây phút bối rối
ấy, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn
thiện, khám phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Vào khoảnh
khắc đó, Phùng hoàn toàn thành tâm với nghệ thuật, nó vừa là cái toàn
thiện, cái đạo đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc…Anh được nó nâng
đỡ, ban tặng đồng thời sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh
“bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim”. “ Cái đẹp tuyệt
đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong ống kính có lẽ là cái đẹp đạo
đức của thiên nhiên. Thiên nhiên, ngay cả khi dữ dội nhất, tàn nhẫn
nhất, người ta vẫn thu được khoảnh khắc rất đẹp: núi lửa, tia chớp,
sóng thần, bão cát … Thiên nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “vẻ đẹp”
kia chẳng qua là một chuỗi những thỏa thuận nằm ngoài nó, do con người
tạo nên.
Nhưng câu chuyện đột nhiên chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc
trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực
cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác,
có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải,
nhận thức hiện thực.
Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc
đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi
chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào
tới”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “tấm lưng rộng và cong như lưng
một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ
độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà
“cao lớn với những đường nét thô kệch”, “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két”… Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “bóng một
đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giật
chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “dang thẳng cánh tay cho
thằng bé hai cái tát”. Rồi lão lẳng bặng bỏ đi về phía bờ nước để trở
về thuyền. Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh
mông và hoang sơ”, chỉ còn Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngoài khơi,
tất cả chìm vào cõi im lặng…
Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên mà
không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của
chồng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và
bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha
mẹ chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa đi
qua. Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích của
thiên nhiên. Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh
phúc của người nghệ sĩ. Một nỗi đau và dìm nén nỗi đau, một bình yên và
phá hoại bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữa
muôn trùng tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quái
đản, tất cả đều biến mất, tất cả cứ lặp lại…
Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gã
đàn ông vũ phu bằng cú đánh của người “không cho phép hắn đánh một
người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín
đáo cho hắn đánh …”. Phùng nhân danh một người lính- những người đã đổ
máu để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng? Hay ở anh còn có
một động cơ “đạo đức” của người nghệ sĩ - người biết thưởng thức và giữ
gìn vẻ đẹp toàn thiện chứ không phải là toàn ác, tha hóa?
Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện phụ trách
địa bàn, can thiệp vào trường hợp gia đình vợ chồng thuyền chài này.
Những cú đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần đến tiếng
nói của một quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứa
trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kể lể
của người đàn bà: “Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng
các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú
đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Hóa
ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bất
khả tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà
mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi
đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con
quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia
đình này. Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ
nhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội
ngậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả
lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi
khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa,
phi đạo đức.
Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của
đời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Có phải là một Chí
Phèo, một quĩ dữ bước ra từ cái làng chài hẻo lánh kia không? Tại sao,
dưới xã hội mới này, nơi mà “giấc mơ đại tự sự” đã lan tỏa trong mọi
không gian nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóa
kia?
Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con
người tội nghiệp?. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra
đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Sau này con cái lớn lên,
tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ ràng, đây là một
giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn.
Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào
hiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấp
nhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của người
đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng
lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáy
sâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.
Tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này có phải là
tình huống dựng của nhà văn? Nhà văn đặt nhân vật và độc giả vào một
tình huống phải nhận thức. Nhưng nhân vật đã không lí giải được hiện
thực, tiếng nói của quan tòa cũng trở nên lạc lõng. Họ chấp nhận nó
bằng những thỏa thuận bên ngoài. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển
động, gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách.
Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy ra. “Con sói con” - cậu bé
Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn áp người cha, trấn áp
người đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trở
lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.
Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong
các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bức
ảnh thì không thể xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi đau
vĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo đức?
Hay nghệ thuật “bất khả tri” trước hiện thực ?. Cũng như chiếc thuyền
ngoài xa, nghệ thuật chỉ có thể nắm bắt được cái bóng của nó, cái bóng
của hiện thực. Vẻ ngoài của nghệ thuật, đôi khi như màn sương làm “mờ
hóa” khả năng tri nhận ở chúng ta. Bất khả tri trở thành niềm day dứt
của người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên chức là ngưỡng vọng và sáng
tạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp ấy làm che
khuất và quên đi những bất hạnh trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạo
đức, nó là sự phản tỉnh.
Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ không đủ sức lí giải, chấm dứt bi kịch của gia
đình thuyền chài kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trong
tâm hồn những con người bé nhỏ, khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên,
Phùng hoàn toàn thấu nhận. Trước số phận của người đàn bà, Phùng là
người ngoài cuộc. Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành trình sáng
tạo của nghệ thuật.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có sự
gia tăng của kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiến
người chồng hành hung vợ là trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễn
ra dưới một cú quay toàn cảnh kéo dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờ
đến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc trong sự yên
tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảm
tối đa, những hình ảnh khô khốc và bạo liệt. Tiếng nghiến răng ken két
của gã đàn ông vũ phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà
ngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc
- người xem vào những mao mạch trí nhớ khác nhau, hoặc rát buốt hoặc tê
cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên bình lặng,
yên ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờ
hững của thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mà
nhức buốt tâm can…Sử dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nên
hiện thực gần như một cuốn phim tư liệu, chân thực và xúc động.
Là kiểu truyện ngắn mở ra tình huống nhận thức, Nguyễn Minh Châu còn sử
dụng tính biểu tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật (Phùng - gặp
gỡ, chứng kiến, ngụ ý người quan sát; Đẩu - vị phán quyết; Phác - sự
thuần hậu, ngụ ý một phẩm chất của nghệ thuật; đứa con gái của vợ chồng
thuyền chài – nàng tiên cá, ngụ ý vẻ đẹp bí ẩn mà cuộc sống ban tặng )
đến biểu tượng trung tâm: chiếc thuyền ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xa
hay là sự bất khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất sau những điều
chúng ta có thể kiểm soát và chứng kiến được? Chiếc thuyền ngoài xa mãi
mãi là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi
chiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá và huyễn tưởng về nó
vẫn chỉ nằm trong một lớp sương mờ ảo mà thôi.
Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất nước vẫn chưa thoát
khỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Số
phận cá nhân nằm im dưới lớp băng hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với những
dự cảm thời cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh
Châu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt cần thiết. Vết nứt để
nhìn ra vùng tối, và có thể, đón nhận vùng sáng.