c_con_zip
Trả lời 16 năm trước
1. Định nghĩa kinh tế vĩ mô
Trong kinh tế học vi mô, chúng ta tìm hiểu về hoạt động của những người đưa ra các quyết định cá nhân như là hộ gia đình và những doanh nghiệp trong những thị trường riêng rẽ.
● Trong kinh tế học vĩ mô, chúng ta nghiên cứu về nền kinh tế một cách toàn bộ - chúng ta nghiên cứu hoạt động kinh tế một cách tổng thể.
● Trong kinh tế học vĩ mô, chúng ta sẽ nhấn mạnh đến những đơn vị đưa ra quyết định lớn hơn - những hoạt động của TẤT CẢ những người tiêu dùng hoặc của TẤT CẢ những người lao động.
● Bên cạnh đó, thay vì tập trung vào các giá cả riêng rẽ, chúng ta sẽ nghiên cứu tất cả các giá cả (mức giá trung bình).
● Và thay vì tâp trung vào sản xuất và bán ra trong một thị trường nhất định, chúng ta sẽ nghiên cứu tổng sản xuất của toàn bộ nền kinh tế, gọi là Tổng Sản phẩm Quốc nội (GDP).
Các vấn đề kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống hàng ngày của các cá nhân nói chung.
● Chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn về điều gì tạo nên sự thất nghiệp, và tại sao nó lại trở nên cao hơn tại nhiều thời điểm khác nhau.
● Chúng ta có thể tìm hiểu xem điều gì tạo nên sự tăng trưởng của tổng thu nhập quốc dân, và điều gì tạo nên sự suy giảm trong thu nhập quốc dân như là trong giai đoạn những năm đầu của thập kỷ 90.
● Một thanh sô cô la giá 10cent năm 1950, nhưng giá 1 đô la ngày nay - tại sao giá cả lại tăng lên như thế?
● Tại sao chính phủ liên bang và chính quyền các tỉnh lại lo lắng về sự thâm hụt, và điều này có ảnh hưởng gì đến đời sống hàng ngày?[1]
2) Các Yếu tố chính của Kinh tế Vĩ mô
Chúng tôi sẽ bắt đầu phân tích với những biến kinh tế vĩ mô cơ bản và yếu tố đặc định xung quanh các biến này
a) Thất nghiệp
Một biến mà tôi chắc chắn bạn quan tâm - bạn sẽ có được một công việc sau khi tốt nghiệp?
Chúng ta sẽ tìm hiểu về thất nghiệp và thị trường lao động chi tiết hơn ở chương 10, và chúng tôi bắt đầu với một khái niệm cơ bản và một vài yếu tố đặc định đơn giản:
● Số dân ở độ tuổi lao động bao gồm những người ở và trên tuổi 15[2].
● Dân số được phân chia thanh người người thuộc lực lượng lao động và những người không thuộc lực lượng lao động.
● Những người thuộc lực lượng lao động bao gồm những người có việc làm và những người không có việc làm.
Hình 1 dưới đây chỉ ra tỷ lệ thất nghiệp ở Canada gần đây.
Hình 1 Tỷ lệ Thất nghiệp ở Canada năm 1975-1979[3]
http://www.kinhtehoc.com/kinhte/macro/214_files/image002.jpg
Bạn đã thấy rằng tỷ lệ này biến động rất mạnh. Nếu so sánh với thất nghiệp ở Hoa Kỳ, thì chúng ta thấy rằng chúng có mối liên hệ gần gũi, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ thấp hơn rất nhiều - khoảng 4.5% năm 1999. Một trong những mục tiêu của chúng tôi là giải thích sự biến động, và sự khác nhau giữa tỷ lệ của Canada và Hoa Kỳ. Một trong những yếu tố thú vị về những năm 1990 là sự giảm xuống nạn thất nghiệp ở Canada sau thời kỳ khủng hoảng 1990-91, so với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với tỷ lệ thất nghiệp tháng Mười hai năm 1999 là 6.9%, mức thấp nhất trong vòng 30 năm, chúng ta cuối cùng cũng cạnh tranh được với thành công của nước Mỹ.
b) GDP thực tế - Tăng trưởng và Những biến động
Một trong những điều chúng ta luôn quan tâm là liệu rằng các cá nhân hoặc tổ chức có thể có được điều kiện tốt hơn trong tương lai hay không.
● Có rất nhiều cách thức khác nhau để đánh giá về điều kiện kinh tế có tốt hay không, bao gồm trình độ giáo dục, chăm sóc y tế, môi trường sống, nhà ở, việc sử dụng các tiện nghi như máy tính hoặc VCR. .v.v.
● Chúng ta cũng có thể tập trung vào một phương pháp thực dụng hơn, đó là tổng sản phẩn của nền kinh tế tính trên một năm, được biết đến với là Tổng sản phẩm Quốc nội (GDP).
● GDP là một biện pháp để xác định tổng thị giá của toàn bộ hàng hoá dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia.
● GDP thực tế nhằm kiểm soát những tác động của lạm phát bằng cách sử dụng các giá cả của một năm nào đó.
Chúng ta sẽ nói về việc GDP thực tế được tính như thế nào trong phần tiếp theo, và một vài sai lầm trong những cách tính toán này. Bây giờ, chúng ta hãy nhìn vào những dữ liệu có được ở Canada, trong Hình 2.
● Hình 2 chỉ ra GDP thực tế của Canada từ năm 1981, cùng với đường chiều hướng biểu diễn mức tăng trưởng bình quân của GDP trong khoảng thời gian này.
● Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng GDP thực tế không tăng lên theo một đường thẳng, mà nó có xu hướng biến động xung quanh đường chiều hướng.
● Chu kỳ kinh tế có tính giai đoạn nhưng vẫn biến động bất thường trong hoạt động của nền kinh tế.
● Nếu chúng ta so sánh với Hình 1, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ rõ ràng giữa chu kỳ kinh tế trong GDP thực tế và những biến động trong tỷ lệ thất nghiệp.
● Khi tăng trưởng GDP thực tế âm, thu nhập thực tế giảm xuống, và tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng. Trong tình huống này, chúng có một sự suy thoái.[4]
● Những ví dụ trong những năm gần đây bao gồm sự khủng hoảng rõ ràng năm 1982, và sự khủng hoảng ở mức độ nhẹ hơn vào năm 1990-91.
● Cuối cùng, nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng, GDP thực tế tăng lên, và thất nghiệp bắt đầu giảm xuống, và tình hình giống như hiện tại.
Trong kinh tế học vĩ mô, chúng tôi cố gắng giải thích điều gì làm cho nền kinh tế tăng trưởng và chu kỳ kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong Kinh tế học 302, ở phần cuối của cuốn sách này chúng tôi sẽ đề cập đến chu kỳ kinh tế.
http://www.kinhtehoc.com/kinhte/macro/214_files/202lec1.gif
Khi bài báo ?Thu nhập tăng lên vì nền kinh tế trên đà tăng trưởng? đăng trên tờ Globe and Mail, thập kỷ đau thương của những năm 1990 cuối cùng dường như cũng đã chấm dứt. Một trong những câu hỏi của chúng ta trong khoá học này là liệu rằng chính phủ đã cải thiện những điều này bằng một chính sách phù hợp hay chưa ? có phải họ đã làm giảm những biến động trong thất nghiệp và GDP thực tế hay không?
c) Lạm phát
Lạm phát là khái niệm dùng để chỉ tỷ lệ thay đổi trong chi phí sinh hoạt[6]
. Lạm phát thường được tính theo tỉ lệ thay đổi của Chỉ số Giá Tiêu dùng
http://www.kinhtehoc.com/kinhte/macro/214_files/202lec2.gif
● Mức giá bình quân được xác định bằng Chỉ số giá, đó là bình quân gia quyền của giá cả trong nền kinh tế Canada.
● Chỉ số giá được sử dụng phổ biến nhất là Chỉ số Giá Tiêu dùng (CPI), chỉ số này xác định chi phí để mua một lượng hàng hoá mà một hộ gia đình trung bình ở Canada, so với lượng hàng hoá đó trong năm cơ sở 1992.
Hình 3 chỉ cho chúng ta thấy lạm phát ở Canada trong hơn hai thập kỷ qua. Chúng ta có thể nhận thấy rằng tỷ lệ này giảm đáng kể trong giai đoạn này. Mục đích của chúng ta là tìm hiểu điều gì gây nên lạm phát, và tìm hiểu xem làm thể nào để một chính sách của chính phủ có thể đạt được thành công trong việc giảm lạm phát.
Hình 3 Lạm phát (1975-1999)[7]
http://www.kinhtehoc.com/kinhte/macro/214_files/image008.jpg
d) Giải thích về Thất nghiệp, Chu kỳ Kinh tế, và Lạm phát
Hiện nay chúng ta có một vài khái niệm cần được giải thích. Một trong những mục tiêu chủ yếu của kinh tế học là giải thích thực tế chứ không phải là mô tả chúng. Để giải thích điều gì gây nên tăng trưởng, chu kỳ, lạm phát, chúng ta cần một mô hình kinh tế vĩ mô. Mô hình hoặc những mô hình như vậy tạo cho chúng ta cơ sở giúp cho chúng ta hiểu được những hiện tượng khác nhau trong thực tiễn. Trong cuốn Kinh tế học 202, chúng tôi xây dựng một mô hình tổng cung, tổng cầu cơ bản, và với hy vọng là sẽ có ích trong việc giải thích các hiện tượng đặc thù, và cho phép chúng tôi trả lời câu hỏi là liệu rằng những hoạt động của chính phủ có thể làm ổn định nền kinh tế hay không.
3) Ổn định hoá nền kinh tế
Nhà nước có hai công cụ chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản.
● Chính sách tài chính được đưa ra bởi Chính quyền liên bang (và đôi khi là chính quyền cấp tỉnh), và bao gồm nhiều mức độ khác nhau về việc mua vào các hàng hoá và dịch vụ của chính phủ và trong các mức độ thuế để tác động lên nền kinh tế. (Lưu ý rằng điều này khác với chính sách kinh tế vĩ mô như là thay đổi tỷ suất thuế toàn bộ để tác động lên toàn bộ thị trường.)
● Chính sách tiền tệ được thực hiện bởi Ngân hàng Canada, và liên quan đến nhiều mức độ khác nhau của việc cung ứng tiền tệ và các mức độ của tỷ lệ lãi suất để tác động lên nền kinh tế.
Những công cụ chính sách này nhằm hướng đến năm mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu.
● Đạt được tỷ lệ tăng trưởng GDP tiềm năng ổn định cao nhất có thể cải thiện được GDP thực tế của cá nhân.
● Làm giảm những biến động có thể tránh được có thể làm giảm đi sự mất mát về sản lượng và những chi phí bế tắc.
● Duy trì thất nghiệp ở mức thấp ở mức độ tự nhiên làm giảm đi những mất mát từ việc thất nghiệp ở mức cao và thất nghiệp ở mức thấp (những chi phí bế tắc).
● Duy trì mức lạm phát thấp để tránh được những chi phí giao dịch và chi phí của lạm phát không thể dự đoán được.
● Làm giảm thâm hụt ngân sách hiện thời đến mức hiệu quả để giảm bớt những chi phí vay nợ quốc tế.
Những mục tiêu của tăng trưởng GDP thực tế, ổn định chu kỳ kinh tế, và duy trì thất nghiệp ở mức tự nhiên là một sự liên hợp (cộng sinh).
● Tập trung vào tăng trưởng GDP thực tế là một mục tiêu chính sách chủ đạo, còn lạm phát là phần bổ trợ kia.
● Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng GDP thực tế lại xung đột với mục tiêu lạm phát trong ngắn hạn.
Kinh tế học có một mục tiêu đồng nhất của lý thuyết cơ sở mà hầu hết các nhà kinh tế học đều đồng ý, một mục tiêu mà chúng tôi sẽ phát triển trong khoá học này.
● Tuy nhiên, ngay cả khi mục tiêu đó được chấp nhận trong các lý thuyết kinh tế, và thậm chí chúng ta đồng ý về các mục tiêu, và chúng ta có một vài ý tưởng về những công cụ của chính sách ổn định hoá, các nhà kinh tế học vĩ mô vẫn bất đồng về phương pháp phù hợp để đạt được sự ổn định về kinh tế.
● Lý do cơ bản là có hai trường phái quan điểm, trong đó có sự bất đồng về việc cách vận hành của một số yếu tố trong nền kinh tế, do đó các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhau sẽ đạt được mức độ thành công khác nhau.
4) Các Trường phái Kinh tế học Vĩ mô
Có hai trường phái lớn về kinh tế học vĩ mô: Kinh tế học tân cổ điển và Kinh tế học Keynes mới.
Các nhà kinh tế học Tân cổ điển bao gồm rất nhiều trường phái phụ. Tuy nhiên, họ có một số quan điểm cơ bản tương đồng:
● Nền kinh tế có xu hướng vận hành ổn định mà không có sự điều tiết của chính phủ, sự cân bằng của nó là do tự điều chỉnh.
● Nền kinh tế có xu hướng tạo ra việc làm đầy đủ cho mọi người mà không có sự can thiệp của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước thường làm xấu đi tình trạng của nền kinh tế.
● Do đó, họ đi đến kết luận rằng sự can thiệp tối thiểu của nhà nước là điều tốt nhất, chỉ hạn chế một vài quy tắc cơ bản như cân bằng ngân sách ở mức trung bình, duy trì sự tăng trưởng ở mức độ có thể quyết định trước được .v.v.
● Những nhà kinh tế này thường được gọi là những người theo phái trọng tiền.
Những nhà kinh tế học Keynes mới tin rằng nền kinh tế không thể tự nó vận hành tốt được.
● Không giống như các nhà kinh tế học tân cổ điển, các nhà kinh tế học Keynes mới thường lập luận rằng thị trường lao động và những thị trường khác không tự động điều chỉnh đến hệ cân bằng, nhưng thay vào đó nền kinh tế có thể gặp đình trệ tại một điểm thất nghiệp cao, trong một thời gian dài, trừ phi có sự can thiệp của nhà nước,
● Do đó, các nhà kinh tế học này muốn thực hiện tác động tích cực đến nền kinh tế, và lập luận rằng nhà nước nên chú ý điều tiết nền kinh tế bằng cách điều chỉnh chính sách tài khoá và tiền tệ để cho nền kinh tế đó có thể tạo việc làm đầy đủ cho mọi người.
Một trong những công việc của chúng tôi trong khoá học này là giới thiệu tới các bạn điều cốt yếu về lý thuyết mà cả hai trường phái đều có được sự đồng thuận.
● Sự thống nhất này là rất quan trọng trong việc thảo luận về những mô hình của tổng cầu trong Phần II.
● Tuy nhiên, chúng tôi cũng sẽ giới thiệu với các bạn trong Phần III các quan điển khác nhau về thị trường lao động và tổng cung của hai trường phái.
Chúng ta cũng sẽ xem xét sự xung đột quan điểm về cách thức nền kinh tế vận hành và việc thực hiện chính sách ổn định.
● Một trong những công việc của các bạn là hiểu được những yếu tố phổ biến trong những mô hình này, cũng như là sự khác nhau, và tại sao lại có sự khác nhau này.
● Những mô hình này không chỉ là sự khác nhau về quan điểm, như là việc xem Coke và Pepsi thứ đồ uống nào ngon hơn.
● Đó là sự khác nhau về nhận thức dựa trên những quan điểm khác nhau về các yếu tố của nền kinh tế, hy vọng một ngày nào đó sẽ được quyết định bằng những quan sát kinh nghiệm và cải tiến trong hiểu biết của chúng ta về nền kinh tế, giống như nhiều sự khác nhau khác đã được giải quyết.
Tuy nhiên trước khi chúng ta bắt đầu với những mô hình này, chúng tôi muốn thảo luận sơ qua về phương pháp và sự quan sát hoạt động kinh tế vĩ mô trong phần tiếp theo.
[2] Thực tế loại trừ những người trong quân đội, trong tù và những tổ chức khác, những người sống trong những lãnh thổ tự trị và sống ở hải ngoại.
[3] Trích từ dữ liệu CANSIM của Thống kê Canada, cuống D980745.
[4] Về mặt kỹ thuật, chúng ta thường nói rằng sự suy thoái xảy ra khi chúng ta có tăng trưởng kinh tế âm trong 2 quý, mỗi quý là 3 tháng.
[5] Trích từ dữ liệu CANSIM Thống kê Canada, quyển D14872.
[6] Nếu mức độ thay đổi là âm, thì chúng ta gọi là giảm phát.
[7] Trích từ dữ liệu CANSIM Thống kê Canada, cuốn P100000.
Chita
Trả lời 16 năm trước
Môi trường vĩ mô là những lực lượng trên bình diện xã hội rộng lớn hơn, có ảnh hưởng đến môi trường vi mô, như các yếu tố nhân khẩu, kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật, chính trị và văn hóa. Trước tiên ta hãy nói về môi trường vĩ mô của công ty rồi sau đó sẽ xem xét môi trường vi mô.
[b]1. Các lực lượng chủ yếu của môi trường vĩ mô.[/b]
Các công ty , những người cung ứng, những người trung gian Marketing, khách hàng, các đối thủ cạnh tranh và công chúng đều hoạt động trong một môi trường vĩ mô rộng lớn của các lực lượng và xu hướng tạo ra những cơ hội đồng thời cũng làm nảy sinh những mối đe dọa. Những lực lượng này là những lực lượng "không thể khống chế được" mà công ty phải theo dõi và đối phó. Trong số những lực lượng xã hội mới có phong trào xanh, phong trào phụ nữ, quyền đồng tình luyến ái, v...v.
Trong số các lực lượng kinh tế có tác động ngày càng tăng của sự cạnh tranh toàn cầu. Các công ty và người tiêu dùng ngày càng phải chịu nhiều tác động của những lực lượng toàn cầu. Trong bức tranh toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng công ty phải theo dõi sáu lực lượng chủ yếu, cụ thể là các lực lượng nhân khẩu, kinh tế, tự nhiên, công nghệ, chính trị và văn hóa.
[b]Môi trường nhân khẩu[/b]
Lực lượng đầu tiên của môi trường cần theo dõi là dân số, bởi vì con người tạo nên thị trường. Những người làm Marketing quan tâm sâu sắc đến quy mô và tỷ lệ tăng dân số ở các thành phố, khu vực và quốc gia khác nhau, sự phân bố tuổi tác và cơ cấu dân tộc, trình độ học vấn, mẫu hình hộ gia đình, cũng như các đặc điểm và
phong trào của khu vực. Chúng ta sẽ nghiên cứu những đặc điểm và xu hướng chủ yếu về nhân khẩu và minh họa những hàm ý của chúng đối với việc lập kế hoạch Marketing.
[i]Sự bùng nổ dân số trên toàn thế giới[/i]
Sự bùng nổ dân số thế giới là một mối lo chủ yếu của các chính phủ và các tổ chức khác nhau trên khắp thế giới. Cơ sở của mối quan tâm này gồm hai yếu tố. Thứ nhất là các nguồn tài nguyên của trái đất có hạn, không thể đảm bảo cuộc sống cho một số lượng người đông như vậy, đặc biệt là với mức sống mà mọi người khao khát muốn có.
Nguyên nhân thứ hai gây ra mối lo ngại là mức tăng dân số đạt cao nhất ở những nước và cộng đồng ít có khả năng đảm bảo cuộc sống nhất. Những khu vực kém phát triển trên thế giới hiện chiếm 76% dân số thế giới và đang tăng lên với tốc độ 2% mỗi năm, trong khi dân số ở những khu vực phát triển hơn của thế giới chỉ tăng 0,6% mỗi năm.
[i]Cơ cấu tuổi của dân số quyết định các nhu cầu[/i]
Dân số có thể chia thành sáu nhóm tuổi: Chưa đến tuổi đi học, tuổi đi học, thiếu niên, thanh niên tuổi từ 25 đến 40, trung niên tuổi từ 40 đến 65 và cao niên tuổi từ 65 trở lên. Đối với những người làm Marketing, đó là những dấu hiệu cho biết những loại sản phẩm và dịch vụ nào sẽ có nhu cầu lớn trong vài năm tới. Ví dụ, nhóm người cao niên tăng sẽ dẫn đến chỗ tăng nhu cầu của những cộng đồng cần giúp đỡ trong cuộc sống, về những mặt hàng định suất nhỏ, trang thiết bị y tế.
Những cửa hàng cung cấp thực phẩm cho những người cao niên sẽ cần chiếu sáng mạnh hơn, các bảng yết thị phải in chữ to hơn, và phòng nghỉ ngơi an toàn.
Những người làm Marketing ngày càng hay cố gắng phân nhỏ các nhóm tuổi hơn nữa đối với các thị trường mục tiêu. Những nhóm đó mang ký hiệu viết tắt như sau:
+ Học sinh có thu nhập và sức mua
+ Bà già, trẻ sơ sinh
+ Thu nhập gấp đôi, không có con
+ Hai người kiếm tiền và có con
+ Những người cao niên sung túc
Mỗi nhóm có một số nhu cầu sản phẩm và dịch vụ nhất định, những sở thích về phương tiện truyền thông và hình thức bán lẻ, sẽ giúp các người làm Marketing xác định chi tiết hơn những hàng hóa tùng ra thị trường của mình.
[i]
Dân tộc[/i]
Các nước có cơ cấu dân tộc và chủng tộc rất khác nhau. Nhật là một thái cực, vì ở đó mọi người đều là người Nhật, còn Hoa Kỳ thì nằm ở thái cực kia, vì dân chúng có nguồn gốc từ hấu như tất cả các nước. Đầu tiên Hoa Kỳ được gọi là nơi hỗn cư, thế nhưng ngày càng thấy rõ những dấu hiệu cho thấy rằng sẽ không có nơi hỗn cư.
Bây giờ người ta lại gọi Hoa Kỳ là một xã hội "hổ lốn" với các nhóm sắc tộc vẫn duy trì những điểm khác biệt của dân tộc, quan hệ hàng xóm láng giềng và các nền văn hóa. Dân số Hoa Kỳ (năm 1990 là 249 triệu) gồm 80% là da trắng, 12% da đen và 3% là dân Châu Á. Mỗi nhóm dân cư có những mong muốn nhất định và những thói quen mua sắm nhất định.
[i]Các nhóm trình độ học vấn[/i]
Trong bất kỳ xã hội nào dân cư cũng được phân thành năm nhóm trình độ học vấn: Mù chữ, học dở dang trung học, tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học và tốt nghiệp nghiệp vụ chuyên môn. Ở Nhật 99% dân cư biết chữ, trong khi ở Hoa Kỳ 10% - 15% dân cư có thể không biết gì về nghiệp vụ chuyên môn. Mặt khác, Hoa Kỳ lại là nước có tỷ lệ phần trăm công dân tốt nghiệp đại học cao nhất, khoảng 20%.
[i]Các kiểu hộ gia đình[/i]
Mọi người đều nghĩ, một hộ gia đình truyền thống gồm chồng, vợ và con cái (đôi khi cả ông bà). Ngày nay ở Hoa Kỳ hộ gia đình truyền thống không còn là kiểu hộ gia đình phổ biến nữa. Hộ gia đình ngày nay gồm người độc thân sống một mình, những người lớn tuổi cùng giới hay khác giới sống chung với nhau, những gia đình chỉ có bố hoặc mẹ, những cặp vợ chồng không có con, và những tổ ấm trống trải. Mỗi
nhóm có những nhu cầu và thói quen mua sắm riêng. Ví dụ, nhóm độc thân, ly thân, góa bụa, ly dị cần những căn hộ nhỏ hơn, những thiết bị không đắt tiền và nhỏ hơn, đồ gỗ và trang trí nội thất không đắt tiền và thực phẩm đóng gói nhỏ hơn. Những người làm Marketing phải chú ý nghiên cứu ngày càng nhiều hơn những nhu cầu đặc biệt của những hộ gia đình không theo truyền thống này, vì số hộ gia đình kiểu này
đang tăng nhanh hơn số hộ gia đình truyền thống.
[i]Dịch chuyển từ thị trường đại chúng sang các vi thị trường[/i]
Tác động của tất cả những thay đổi này đã dẫn đến việc chia nhỏ thị trường đại chúng thành rất nhiều những vi thị trường khác nhau về lứa tuổi, giới tính và dân tộc, trình độ học vấn, địa lý, lối sống, v...v. mỗi nhóm có những sở thích rõ rệt và những đặc điểm tiêu dùng riêng và được tiếp cận thông qua những kênh thông tin và phân phối ngày càng có mục tiêu rõ rệt hơn. Các công ty đã từ bỏ dần phương thức "ăn xổi" nhằm vào người tiêu dùng "trung bình" giả định và ngày càng chuyển sang
thiết kế những sản phẩm và chương trình Marketing của mình cho những vi thị trường nhất định.
[b]Môi trường kinh tế[/b]
Thị trường cần có sức mua và công chúng. Sức mua hiện có trong một nền kinh tế phụ thuộc vào thu nhập hiện có, giá cả, lượng tiền tiết kiệm, nợ nần và khả năng có thể vay tiền. Những người làm Marketing phải theo dõi chặt chẽ những xu hướng chủ yếu trong thu nhập và các kiểu chi tiêu của người tiêu dùng.
[b]Phân phối thu nhập[/b]
Các nước rất khác nhau về mức và cách phân phối thu nhập. Yếu tố quyết định là cơ cấu công nghiệp.
Trong nền kinh tế tự túc tuyệt đại bộ phận dân cư làm nông nghiệp đơn thuần.
Họ tiêu dùng hầu hết sản phẩm làm ra và đem trao đổi số còn lại để lấy những hàng hóa và dịch vụ đơn giản. Họ tạo rất ít cơ hội cho những người làm Marketing.
Những nền kinh tế “xuất nguyên liệu” thường giàu một hay nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng nghèo về các mặt khác. Phần lớn thu nhập đều do xuất khẩu những tài nguyên đó mà có. Ví dụ như Zaire (cao su) và Ả Rập Sau di (dầu mỏ). Những nước này là thị trường tốt đối với các thiết bị tách nhiệt, các công cụ và phụ tùng, thiết bị bốc xếp vật tư và xe vận tải.
Trong nền kinh tế đang phát triển, sản xuất bắt đầu chiếm khoảng từ 10 đến 20% tổng sản phẩm quốc dân của đất nước. Ví dụ như ấn Độ, Ai Cập và Philippines.
Khi sản xuất tăng lên đất nước phải dựa nhiều hơn vào việc nhập khẩu nguyên liệu,sắt thép, máy móc hạng nặng và ít phải nhập khẩu lưới đánh cá, các sản phẩm của giấy và thực phẩm chế biến. Quá trình công nghiệp hóa đã tạo ra một giai tầng mới, giàu có và một tầng lớp trung lưu nhỏ nhưng đang phát triển lên, cả hai tầng lớp này đều yêu cầu những kiểu hàng hoá mới, trong số đó có một số phải nhập khẩu.
Còn trong nền kinh tế công nghiệp là người xuất khẩu chủ yếu những hàng hóa làm ra và vốn đầu tư. Họ mua hàng công nghiệp của nhau và cũng xuất khẩu cho nhau như các kiểu nền kinh tế khác để trao đổi nguyên liệu và các bán thành phẩm.
Những hoạt động sản xuất to lớn và đa dạng của những nước công nghiệp này và tầng lớp trung lưu rất đông đảo của họ đã làm cho những nước này trở thành những thị trường giàu có đối với tất cả các loại hàng hóa.
Phân phối thu nhập có quan hệ với cơ cấu công nghiệp của đất nước, nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống chính trị. Người làm Marketing phân các nước theo năm kiểu phân phối thu nhập khác nhau: (1) Thu nhập rất thấp,
(2) Phần lớn có thu nhập thấp,
(3) thu nhập rất thấp, rất cao,
(4) thu nhập thấp, trung bình, cao
(5) phần lớn có thu nhập trung bình.
Tiết kiệm, nợ, khả năng vay tiền
Việc chi tiêu của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng của việc tiết kiệm, nợ nần và khả năng vay tiền. Ví dụ, người Nhật tiết kiệm khoảng 18% thu nhập của mình, trong khi những người tiêu dùng Hoa Kỳ chỉ tiết kiệm khoảng 6%. Kết quả là các ngân hàng Nhật có thể cho các công ty Nhật vay tiền với lãi suất thấp hơn nhiều so với các ngân hàng Hoa Kỳ, và chính khả năng có được vốn rẻ hơn này đã giúp các công ty Nhật phát triển nhanh hơn. Những người tiêu dùng Hoa Kỳ cũng có tỷ lệ nợ trên thu nhập cao và điều này lại làm chậm lại những khoản chi tiêu cho nhà ở và
những mặt hàng cao cấp. ở Hoa Kỳ có khả năng vay tín dụng rất dễ, song lãi suất
khá cao, đặc biệt là đối với những người đi vay có thu nhập tương đối thấp. Những người làm Marketing phải theo dõi kỹ lưỡng mọi biến động lớn trong thu nhập, giá sinh hoạt, lãi suất, các kiểu tiết kiệm và vay tiền, bởi vì chúng có thể có ảnh hưởng lớn, đặc biệt là đến những công ty, những sản phẩm có mức độ nhạy cảm cao đối với thu nhập và giá.
Tham khảo tiếp tại đây http://www.vietnammarcom.edu.vn/LinkClick.aspx?link=Chapter+3+-+Phan+Tich+Moi+Truong+Marketing.pdf&tabid=181&mid=562.
hoakhanh
Trả lời 15 năm trước
Môi trường marketing là một tập hợp những lực lượng “không khống chế được”
mà các công ty phải chú ý đến khi xây dựng các hệ thống marketing - mix của mình.
Môi trường marketing được hiểu như sau:
Môi trường marketing của công ty là tập hợp những chủ thể tích cực và những
lực lượng hoạt động ở bên ngoài công ty và có ảnh hưởng đến khả năng chỉ đạo bộ
phận marketing, thiết lập và duy trì mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với các khách hàng
mục tiêu.
Do tính chất luôn biến động, khống chế và hoàn toàn bất định, môi trường
marketing động chạm sâu sắc đến đời sống công ty. Những biến đổi diễn ra trong
môi trường này không thể gọi là chậm và có thể dự đoán trước được. Nó có thể gây
ra những điều bất ngờ lớn và những hậu quả nặng nề. Vì thế công ty cần phải chú ý
theo dõi tất cả những diễn biến của môi trường bằng cách sử dụng vào mục đích này
việc nghiên cứu marketing và những khả năng thu thập thông tin marketing thường
ngày bên ngoài công ty hiện có.
Môi trường marketing gồm có môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. Môi
trường vi mô là những lực lượng có quan hệ trực tiếp với bản thân công ty và những
khả năng phục vụ khách hàng của nó, tức là những người cung ứng, những người
môi giới marketing, các khách hàng, các đối thủ cạnh tranh và công chúng trực tiếp.
Môi trường vĩ mô là những lực lượng trên bình diện xã hội rộng lớn hơn, có ảnh
hưởng đến môi trường vi mô, như các yếu tố nhân khẩu, kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật,
chính trị và văn hóa. Trước tiên ta hãy nói về môi trường vĩ mô của công ty rồi sau
đó sẽ xem xét môi trường vi mô.
1. Các lực lượng chủ yếu của môi trường vĩ mô.
Các công ty , những người cung ứng, những người trung gian Marketing, khách
hàng, các đối thủ cạnh tranh và công chúng đều hoạt động trong một môi trường vĩ
Page 2
mô rộng lớn của các lực lượng và xu hướng tạo ra những cơ hội đồng thời cũng làm
nảy sinh những mối đe dọa. Những lực lượng này là những lực lượng "không thể
khống chế được" mà công ty phải theo dõi và đối phó. Trong số những lực lượng xã
hội mới có phong trào xanh, phong trào phụ nữ, quyền đồng tình luyến ái, v...v.
Trong số các lực lượng kinh tế có tác động ngày càng tăng của sự cạnh tranh toàn
cầu. Các công ty và người tiêu dùng ngày càng phải chịu nhiều tác động của những
lực lượng toàn cầu. Trong bức tranh toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng công ty
phải theo dõi sáu lực lượng chủ yếu, cụ thể là các lực lượng nhân khẩu, kinh tế, tự
nhiên, công nghệ, chính trị và văn hóa.
Môi trường nhân khẩu
Lực lượng đầu tiên của môi trường cần theo dõi là dân số, bởi vì con người tạo
nên thị trường. Những người làm Marketing quan tâm sâu sắc đến quy mô và tỷ lệ
tăng dân số ở các thành phố, khu vực và quốc gia khác nhau, sự phân bố tuổi tác và
cơ cấu dân tộc, trình độ học vấn, mẫu hình hộ gia đình, cũng như các đặc điểm và
phong trào của khu vực. Chúng ta sẽ nghiên cứu những đặc điểm và xu hướng chủ
yếu về nhân khẩu và minh họa những hàm ý của chúng đối với việc lập kế hoạch
Marketing.
Sự bùng nổ dân số trên toàn thế giới
Sự bùng nổ dân số thế giới là một mối lo chủ yếu của các chính phủ và các tổ
chức khác nhau trên khắp thế giới. Cơ sở của mối quan tâm này gồm hai yếu tố. Thứ
nhất là các nguồn tài nguyên của trái đất có hạn, không thể đảm bảo cuộc sống cho
một số lượng người đông như vậy, đặc biệt là với mức sống mà mọi người khao khát
muốn có.
Nguyên nhân thứ hai gây ra mối lo ngại là mức tăng dân số đạt cao nhất ở
những nước và cộng đồng ít có khả năng đảm bảo cuộc sống nhất. Những khu vực
kém phát triển trên thế giới hiện chiếm 76% dân số thế giới và đang tăng lên với tốc
độ 2% mỗi năm, trong khi dân số ở những khu vực phát triển hơn của thế giới chỉ
tăng 0,6% mỗi năm.
Cơ cấu tuổi của dân số quyết định các nhu cầu
Dân số có thể chia thành sáu nhóm tuổi: Chưa đến tuổi đi học, tuổi đi học,
thiếu niên, thanh niên tuổi từ 25 đến 40, trung niên tuổi từ 40 đến 65 và cao niên
tuổi từ 65 trở lên. Đối với những người làm Marketing, đó là những dấu hiệu cho biết
những loại sản phẩm và dịch vụ nào sẽ có nhu cầu lớn trong vài năm tới. Ví dụ,
Page 3
nhóm người cao niên tăng sẽ dẫn đến chỗ tăng nhu cầu của những cộng đồng cần
giúp đỡ trong cuộc sống, về những mặt hàng định suất nhỏ, trang thiết bị y tế.
Những cửa hàng cung cấp thực phẩm cho những người cao niên sẽ cần chiếu sáng
mạnh hơn, các bảng yết thị phải in chữ to hơn, và phòng nghỉ ngơi an toàn.
Những người làm Marketing ngày càng hay cố gắng phân nhỏ các nhóm tuổi
hơn nữa đối với các thị trường mục tiêu. Những nhóm đó mang ký hiệu viết tắt như
sau:
+ Học sinh có thu nhập và sức mua
+ Bà già, trẻ sơ sinh
+ Thu nhập gấp đôi, không có con
+ Hai người kiếm tiền và có con
+ Những người cao niên sung túc
Mỗi nhóm có một số nhu cầu sản phẩm và dịch vụ nhất định, những sở thích về
phương tiện truyền thông và hình thức bán lẻ, sẽ giúp các người làm Marketing xác
định chi tiết hơn những hàng hóa tùng ra thị trường của mình.
Dân tộc
Các nước có cơ cấu dân tộc và chủng tộc rất khác nhau. Nhật là một thái cực,
vì ở đó mọi người đều là người Nhật, còn Hoa Kỳ thì nằm ở thái cực kia, vì dân chúng
có nguồn gốc từ hấu như tất cả các nước. Đầu tiên Hoa Kỳ được gọi là nơi hỗn cư,
thế nhưng ngày càng thấy rõ những dấu hiệu cho thấy rằng sẽ không có nơi hỗn cư.
Bây giờ người ta lại gọi Hoa Kỳ là một xã hội "hổ lốn" với các nhóm sắc tộc vẫn duy
trì những điểm khác biệt của dân tộc, quan hệ hàng xóm láng giềng và các nền văn
hóa. Dân số Hoa Kỳ (năm 1990 là 249 triệu) gồm 80% là da trắng, 12% da đen và
3% là dân Châu Á. Mỗi nhóm dân cư có những mong muốn nhất định và những thói
quen mua sắm nhất định.
Các nhóm trình độ học vấn
Trong bất kỳ xã hội nào dân cư cũng được phân thành năm nhóm trình độ học
vấn: Mù chữ, học dở dang trung học, tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học và tốt
nghiệp nghiệp vụ chuyên môn. Ở Nhật 99% dân cư biết chữ, trong khi ở Hoa Kỳ 10%
Page 4
- 15% dân cư có thể không biết gì về nghiệp vụ chuyên môn. Mặt khác, Hoa Kỳ lại là
nước có tỷ lệ phần trăm công dân tốt nghiệp đại học cao nhất, khoảng 20%.
Các kiểu hộ gia đình
Mọi người đều nghĩ, một hộ gia đình truyền thống gồm chồng, vợ và con cái
(đôi khi cả ông bà). Ngày nay ở Hoa Kỳ hộ gia đình truyền thống không còn là kiểu
hộ gia đình phổ biến nữa. Hộ gia đình ngày nay gồm người độc thân sống một mình,
những người lớn tuổi cùng giới hay khác giới sống chung với nhau, những gia đình chỉ
có bố hoặc mẹ, những cặp vợ chồng không có con, và những tổ ấm trống trải. Mỗi
nhóm có những nhu cầu và thói quen mua sắm riêng. Ví dụ, nhóm độc thân, ly thân,
góa bụa, ly dị cần những căn hộ nhỏ hơn, những thiết bị không đắt tiền và nhỏ hơn,
đồ gỗ và trang trí nội thất không đắt tiền và thực phẩm đóng gói nhỏ hơn. Những
người làm Marketing phải chú ý nghiên cứu ngày càng nhiều hơn những nhu cầu đặc
biệt của những hộ gia đình không theo truyền thống này, vì số hộ gia đình kiểu này
đang tăng nhanh hơn số hộ gia đình truyền thống.
Dịch chuyển từ thị trường đại chúng sang các vi thị trường
Tác động của tất cả những thay đổi này đã dẫn đến việc chia nhỏ thị trường đại
chúng thành rất nhiều những vi thị trường khác nhau về lứa tuổi, giới tính và dân
tộc, trình độ học vấn, địa lý, lối sống, v...v. mỗi nhóm có những sở thích rõ rệt và
những đặc điểm tiêu dùng riêng và được tiếp cận thông qua những kênh thông tin và
phân phối ngày càng có mục tiêu rõ rệt hơn. Các công ty đã từ bỏ dần phương thức
"ăn xổi" nhằm vào người tiêu dùng "trung bình" giả định và ngày càng chuyển sang
thiết kế những sản phẩm và chương trình Marketing của mình cho những vi thị
trường nhất định.
Môi trường kinh tế
Thị trường cần có sức mua và công chúng. Sức mua hiện có trong một nền kinh
tế phụ thuộc vào thu nhập hiện có, giá cả, lượng tiền tiết kiệm, nợ nần và khả năng
có thể vay tiền. Những người làm Marketing phải theo dõi chặt chẽ những xu hướng
chủ yếu trong thu nhập và các kiểu chi tiêu của người tiêu dùng.
Phân phối thu nhập
Các nước rất khác nhau về mức và cách phân phối thu nhập. Yếu tố quyết định là cơ
cấu công nghiệp.
Page 5
Trong nền kinh tế tự túc tuyệt đại bộ phận dân cư làm nông nghiệp đơn thuần.
Họ tiêu dùng hầu hết sản phẩm làm ra và đem trao đổi số còn lại để lấy những hàng
hóa và dịch vụ đơn giản. Họ tạo rất ít cơ hội cho những người làm Marketing.
Những nền kinh tế “xuất nguyên liệu” thường giàu một hay nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nhưng nghèo về các mặt khác. Phần lớn thu nhập đều do xuất
khẩu những tài nguyên đó mà có. Ví dụ như Zaire (cao su) và Ả Rập Sau di (dầu
mỏ). Những nước này là thị trường tốt đối với các thiết bị tách nhiệt, các công cụ và
phụ tùng, thiết bị bốc xếp vật tư và xe vận tải.
Trong nền kinh tế đang phát triển, sản xuất bắt đầu chiếm khoảng từ 10 đến
20% tổng sản phẩm quốc dân của đất nước. Ví dụ như ấn Độ, Ai Cập và Philippines.
Khi sản xuất tăng lên đất nước phải dựa nhiều hơn vào việc nhập khẩu nguyên liệu,
sắt thép, máy móc hạng nặng và ít phải nhập khẩu lưới đánh cá, các sản phẩm của
giấy và thực phẩm chế biến. Quá trình công nghiệp hóa đã tạo ra một giai tầng mới,
giàu có và một tầng lớp trung lưu nhỏ nhưng đang phát triển lên, cả hai tầng lớp này
đều yêu cầu những kiểu hàng hoá mới, trong số đó có một số phải nhập khẩu.
Còn trong nền kinh tế công nghiệp là người xuất khẩu chủ yếu những hàng hóa
làm ra và vốn đầu tư. Họ mua hàng công nghiệp của nhau và cũng xuất khẩu cho
nhau như các kiểu nền kinh tế khác để trao đổi nguyên liệu và các bán thành phẩm.
Những hoạt động sản xuất to lớn và đa dạng của những nước công nghiệp này và
tầng lớp trung lưu rất đông đảo của họ đã làm cho những nước này trở thành những
thị trường giàu có đối với tất cả các loại hàng hóa.
Phân phối thu nhập có quan hệ với cơ cấu công nghiệp của đất nước, nhưng
đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống chính trị. Người làm Marketing phân các
nước theo năm kiểu phân phối thu nhập khác nhau: (1) Thu nhập rất thấp, (2) Phần
lớn có thu nhập thấp, (3) thu nhập rất thấp, rất cao, (4) thu nhập thấp, trung bình,
cao, và (5) phần lớn có thu nhập trung bình.
Tiết kiệm, nợ, khả năng vay tiền
Việc chi tiêu của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng của việc tiết kiệm, nợ nần và
khả năng vay tiền. Ví dụ, người Nhật tiết kiệm khoảng 18% thu nhập của mình,
trong khi những người tiêu dùng Hoa Kỳ chỉ tiết kiệm khoảng 6%. Kết quả là các
ngân hàng Nhật có thể cho các công ty Nhật vay tiền với lãi suất thấp hơn nhiều so
với các ngân hàng Hoa Kỳ, và chính khả năng có được vốn rẻ hơn này đã giúp các
công ty Nhật phát triển nhanh hơn. Những người tiêu dùng Hoa Kỳ cũng có tỷ lệ nợ
Page 6
trên thu nhập cao và điều này lại làm chậm lại những khoản chi tiêu cho nhà ở và
những mặt hàng cao cấp. ở Hoa Kỳ có khả năng vay tín dụng rất dễ, song lãi suất
khá cao, đặc biệt là đối với những người đi vay có thu nhập tương đối thấp. Những
người làm Marketing phải theo dõi kỹ lưỡng mọi biến động lớn trong thu nhập, giá
sinh hoạt, lãi suất, các kiểu tiết kiệm và vay tiền, bởi vì chúng có thể có ảnh hưởng
lớn, đặc biệt là đến những công ty, những sản phẩm có mức độ nhạy cảm cao đối với
thu nhập và giá.
Môi trường tự nhiên
Trong những năm 1990 điều kiện của môi trường tự nhiên ngày cầng xấu đi đã
trở thành một trong những vấn đề quan trọng đặt ra trước các doanh nghiệp và công
chúng. ở nhiều thành phố trên thế giới tình trạng ô nhiễm không khí và nước đã đạt
tới mức độ nguy hiểm. Một mối lo rất lớn là các hóa chất công nghiệp đã tạo ra lỗ
thủng trên tầng ozone gây nên hiệu ứng nhà kính, tức là làm cho trái đất nóng lên
đến mức độ nguy hiểm. ở Tây Âu, các đảng "xanh" đã gây sức ép rất mạnh đòi phải
có những hành động chung làm giảm ô nhiễm trong công nghiệp.
Những người làm Marketing cần nhạy bén với những mối đe dọa và cơ hội gắn
liền với bốn xu hướng trong môi trường tự nhiên.
Thiếu hụt nguyên liệu
Vật chất của trái đất có loại vô hạn, loại hữu hạn, có thể tái tạo được và loại
hữu hạn không tái tạo được. Nguồn tài nguyên vô hạn, như không khí, không đặt ra
vấn đề cấp bách, mặc dù có một số nhóm đã thấy có mối nguy hiểm lâu dài. Các
nhóm bảo vệ môi trường đã vận động cấm sử dụng một số chất đẩy nhất định trong
các bình xịt, vì chúng có khả năng phá huỷ tầng ozone của khí quyển. ở một số khu
vực trên thế giới, nước đã là một vấn đề lớn.
Những nguồn tài nguyên hữu hạn, tái tạo được, như rừng và thực phẩm, cần
được sử dụng một cách khôn ngoan. Những nguồn tài nguyên hữu hạn không tái tạo
được, như dầu mỏ, than đá, kẽm, bạc, sẽ đặt ra một vấn đề nghiêm trọng khi gần
đến lúc bị cạn kiệt.
Chi phí năng lượng tăng
Một nguồn tài nguyên hữu hạn không thể tái tạo - dầu mỏ - đã đẻ ra những
vấn đề nghiệm trong cho nền kinh tế thế giới. Giá dầu mỏ tăng vọt đã thúc đẩy việc
tìm kiếm ráo riết những dạng năng lượng khác. Than đá lại trở nên phổ biến và các
Page 7
công ty đã tìm kiếm những phương tiện có ý nghĩa thực tiễn để khai thác năng lượng
mặt trời, hạt nhân, gió và các dạng năng lượng khác. Chỉ riêng trong lĩnh vực năng
lượng mặt trời đã có hàng trăm công ty tung ra những sản phẩm thế hệ đầu tiên để
khai thác năng lượng mặt trời phục vụ sưởi ấm nhà ở và các mục đích khác. Một số
công ty đã tìm cách chế tạo ô tô điện có giá trị thực tiễn và treo giải thưởng hàng tỷ
bạc cho người đoạt giải.
Mức độ ô nhiễm tăng
Một số hoạt động công nghiệp chắc chắn sẽ huỷ hoại chất lượng của môi
trường tự nhiên. Hãy xét việc loại bỏ các chất thải hóa học và hạt nhân, mức độ
nhiễm thuỷ ngân gây nguy hiểm của nước biển, các hóa chất gây ô nhiễm khác trong
đất và thực phẩm và việc vứt bừa bãi trong môi trường những chai lọ, các vật liệu
bao bì bằng nhựa và chất khác không bị phân huỷ sinh học.
Mối lo lắng của công chúng đã tạo ra một cơ hội Marketing cho những công ty
nhạy bén. Nó đã tạo ra một thị trường lớn cho các giải pháp kiểm soát ô nhiễm, như
tháp lọc khí, các trung tâm tái sinh và hệ thống bãi thải. Nó dẫn đến chỗ tìm kiếm
những phương án sản xuất và bao gói hàng hóa không huỷ hoại môi trường. Những
công ty khôn ngoan thay vì để bị chậm chân, đã chủ động có những chuyển biến
theo hướng bảo vệ môi trường để tỏ ra là mình có quan tâm đến tương lai của môi
trường thế giới.
Môi trường công nghệ
Một lực lượng quan trọng nhất, định hình cuộc sống của con người là công
nghệ. Công nghệ đã tạo ra những điều kỳ diệu như penicillin, mổ tim mở, và thuốc
tránh thai. Nó cũng đã gây ra những nỗi kinh hoàng như bom khinh khí, khí độc đối
với hệ thần kinh và súng tiểu liên. Nó đã đem lại cho ta những thứ vừa lợi vừa hại,
như ôtô, trò chơi video, bánh mì trắng. Thái độ của người ta đối với công nghệ tuỳ
thuộc vào chỗ người đó nghĩ nhiều đễn những điều kỳ diệu hay những điều kinh
hoàng mà nó đem lại.
Mỗi công nghệ mới đều là một lực lượng "phá hoại một cách sáng tạo".
Transistor đã gây thiệt hại cho ngành sản xuất bóng điện tử, kỹ thuật sao chụp xerox
đã gây thiệt hại cho nghề sản xuất giấy than, ôtô đã gây thiệt hại cho ngành đường
sắt, và truyền hình đã gây thiệt hại cho báo chí. Đáng lẽ ra những ngành cũ phải
chuyển sang những ngành mới, song nhiều ngành đã chống lại hay xem thường
chúng và kết quả là những xí nghiệp của ngành đó bị suy sụp.
Page 8
Mỗi công nghệ đều tạo ra một hậu quảlâu dài quan trọng mà không phải bao
giờ cũng có thể thấy trước được. Ví dụ, thuốc tránh thai làm cho gia đình nhỏ hơn,
nhiều bà vợ đi làm hơn và phần thu nhập được tuỳ ý sử dụng cũng lớn hơn, dẫn đến
chi tiêu nhiều hơn cho chuyện du lịch nghỉ ngơi, mua sắm những hàng hóa lâu bền
và những thứ khác.
Người làm Marketing phải theo dõi những xu hướng sau đây trong công nghệ.
Sự tăng tốc của việc thay đổi công nghệ
Rất nhiều sản phẩm thông thường ngày nay cách đây 30 năm không thể kiếm
đâu ra. John F.Kenedy không biết máy tính cá nhân, đồng hồ đeo tay hiện số, đầu
máy video hay máy Fax. Trong cuốn Future Shock của mình Alvin Toffler đã thấy có
sự tăng tốc trong phát minh, khai thác và truyền bá các công nghệ mới. Ngày càng
nhiều ý tưởng đã đem lại kết quả, và thời gian từ khi có những ý tưởng mới đến khi
thực hiện thành công đang được rút ngắn nhanh chóng, và thời gian từ khi đưa vào
sản xuất đến đỉnh cao của sản xuất cũng được rút ngắn đáng kể. Chín mươi phần
trăm những nhà khoa học cũ hiện nay vẫn còn sống, và công nghệ đã tự nuôi mình.
Những cơ hội đổi mới vô hạn
Ngày nay các nhà khoa học đang nghiên cứu một loạt những công nghệ mới rất
kỳ lạ sẽ tạo nên một cuộc cách mạng đối với các sản phẩm và các quá trình sản xuất
của ta. Những công trình nghiên cứu lý thú nhất đang được tiến hành trong các lĩnh
vực công nghệ sinh học, điện tử chất rắn, robot học và các khoa học vật liệu. Ngày
nay các nhà khoa học đang nghiên cứu cách chữa bệnh AIDS hữu hiệu hơn, thuốc
trường sinh, thuốc giảm đau, robot làm việc nhà, thuốc tránh thai tuyệt đối an toàn,
và thực phẩm ngon, bổ dưỡng không gây béo. Ngoài ra các nhà khoa học cũng
nghiên cứu những sản phẩm viễn tưởng, như ôtô bay, truyền hình ba chiều và những
khu nhà trong vũ trụ. Trong mọi trường hợp, thách thức không chỉ là về mặt kỹ
thuật, mà là cả về mặt thương mại, tức là phải phát triển được những phương án vừa
túi tiền cho các sản phẩm đó.
Thay đổi ngân sách nghiên cứu và phát triển
Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về chi phí hằng năm cho nghiên cứu và phát triển (74
tỷ USD), nhưng gần 60% số kinh phí đó được dành cho quốc phòng. Cần điều chỉnh
thêm kinh phí cho khoa học nghiên cứu vật liệu, công nghệ sinh học và vi cơ khí.
Trong khi Nhật đang tăng chi phí cho nghiên cứu thăm dò những vấn đề cơ bản trong
vật lý, lý sinh và khoa học máy tính.
Page 9
Phần kinh phí nghiên cứu và phát triển của Hoa Kỳ dành cho phát triển ngày
càng tăng đã gây nên mối lo là liệu Hoa Kỳ có thể duy trì được vị trí dẫn đầu trong
khoa học cơ bản không. Nhiều công ty đang theo đuổi những cải tiến lặt vặt cho sản
phẩm chứ không giám mạo hiểm đầu tư vào những nghiên cứu đổi mới lớn. Ngay cả
những công ty nghiên cứu cơ bản như Du Pont, Bell Laboratories và Pfizer cũng làm
việc rất thận trọng. Nhiều công ty mưu tính bỏ tiền vào việc sao chép những sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh và chỉ có những cải tiến nhỏ về tính năng và kiểu
dáng. Phần lớn những nghiên cứu đó là để phòng ngự chứ không phải tiến công.
Ngày càng nhiều công trình nghiên cứu nhằm tạo ra bước đột phá quan trọng là do
các tập đoạn công ty thực hiện chứ không phải từng công ty riêng rẽ.
Quy định về thay đổi công nghệ ngày càng chặt chẽ
Khi sản phẩm ngày càng phức tạp hơn, công chúng cần được bảo đảm an toàn
chắc chắn. Vì vậy các cơ quan nhà nước đã tăng cường quyền lực của mình đối với
việc kiểm tra và nghiêm cấm những sản phẩm có khả năng không an toàn.
Việc thay đổi công nghệ gặp phải sự chống đối của những người xem đó là một
sự đe dọa tự nhiên, cuộc sống riêng tư, tính chất đơn giản và thậm chí cả loài người
nữa. Nhiều nhóm khác nhau đã phản đối việc xây dựng những nhà máy điện nguyên
tử, những ngôi nhà cao tầng và những cơ sở giải trí trong các vườn quốc gia. Họ đòi
hỏi phải đánh giá các công nghệ mới về mặt công nghệ trước khi thương mại hóa
chúng.
Những người làm Marketing cần hiểu rõ là môi trường công nghệ luôn thay đổi
và nắm được những công nghệ mới đó có thể phục vụ nhu cầu của con người như thế
nào. Họ cần hợp tác chặt chẽ với những người làm công tác nghiên cứu và phát triển
để khuyến khích họ nghiên cứu hướng theo thị trường nhiều hơn. Họ phải cảnh giác
với những hậu quả không mon muốn của mọi đổi mới có thể gây thiệt hại cho người
sử dụng và tạo ra sự mất tín nhiệm cùng thái độ chống đối của người tiêu dùng.
Môi trường chính trị
Những quyết định Marketing chịu tác động mạnh mẽ của những diễn biến trong
môi trường chính trị. Môi trường này gồm có luật pháp, các cơ quan nhà nước và
những nhóm gây sức ép có ảnh hưởng và hạn chế các tổ chức và cá nhân khác nhau
trong xã hội.
Page 10
Hiện nay có khá nhiều đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, gây cản trở
đến hoạt động kinh doanh. Luật kinh doanh có một số mục đích. Thứ nhất là bảo vệ
các công ty trong quan hệ với nhau. Các giám đốc điều hành doanh nghiệp đều ca
ngợi cạnh tranh nhưng lại cố gắng vô hiệu cạnh tranh khi nó động chạm đến mình.
Khi bị đe dọa, một số người đã tham gia vào việc định giá rất chi li hay khuyến mãi
hãy những mưu toan xiết chặt việc phân phối. Cho nên đã phải thông qua những đạo
luật xác định và ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.
Mục đích thứ hai của việc điều chỉnh của chính quyền là bảo vệ tiêu dùng trước
tình trạng kinh doanh gian dối. Nếu chỉ còn lại một mình, một số công ty sẽ giảm
chất lượng sản phẩm của mình, quảng cáo sai sự thực, đánh lừa bằng bao bì và dùng
giá để câu khách. Nhiều cơ quan đã xác định và ngăn chặn những hành vi gian dối
đối với người tiêu dùng. Nhiều nhà quản trị đã giận dữ mỗi khi có thêm một đạo luật
bảo vệ người tiêu dùng, chỉ có một số rất ít đã cho rằng phong trào bảo vệ người tiêu
dùng có thể là một việc tốt nhất đã làm được.
Mục đích thứ ba của quy định của chính quyền là bảo vệ lợi ích của xã hội
chống lại những hành vi bừa bãi trong kinh doanh. Có thể xảy ra trường hợp tổng
sản phẩm quốc gia của một nước tăng lên, nhưng chất lượng cuộc sống lại giảm sút.
Mục đích chính của những đạo luật mới và/ hay việc cưỡng chế thi hành là nhằm
buộc các doanh nghiệp phải gánh vác những chi phí xã hội do quá trình sản xuất hay
sản phẩm của họ gây ra.
Tuy vậy, phận sự của những người làm Marketing là phải nắm vững những đạo
luật bảo vệ cạnh tranh, người tiêu dùng và xã hội. Nói chung, các công ty đều xây
dựng những thủ tục xem xét tính hợp pháp và ban hành những tiêu chuẩn đạo đức
để hướng dẫn những nhà quản trị Marketing của mình. Song có một số những người
làm Marketing vẫn phàn nàn rằng có quá nhiều quyết định Marketing là do bộ phận
pháp lý đưa ra và họ muốn có được quyền tự do hơn một chút trong việc thông qua
quyết định gây trở ngại cho các hoạt động của marketing.
Môi trường văn hóa
Xã hội mà con người lớn lên trong đó đã định hình niềm tin cơ bản, giá trị và
các chuẩn mực của họ. Con người hấp thụ, hầu như một cách không có ý thức, một
thế giới quan xác định mối quan hệ của họ với chính bản thân mình, với người khác,
với tự nhiên và với vũ trụ. Sau đây là một số đặc điểm và xu hướng văn hóa chủ yếu
mà người làm Marketing cần quan tâm.
Page 11
Những giá trị văn hóa cốt lõi bền vững
Những người sống trong một xã hội cụ thể có rất nhiều niềm tin và giá trị cốt
lõi có khuynh hướng tồn tại lâu bền. Chẳng hạn như hầu hết người Mỹ đều tin chắc là
phải làm việc, lập gia đình, làm công việc từ thiện và sống lương thiện. Những niềm
tin và giá trị cốt lõi được truyền từ bố mẹ sang con cái và được các định chế xã hội,
như nhà trường, nhà thờ, doanh nghiệp, nhà nước, củng cố thêm.
Những niềm tin và giá trị thứ yếu của con người dễ thay đổi hơn. Việc tin tưởng
vào thể chế hôn nhân là một niềm tin cốt lõi, còn việc tin vào điều là người ta phải
lập gia đình sớm là một niềm tin thứ yếu. Những người làm Marketing kế hoạch hóa
gia đình có thể đạt được kết quả nhiều hơn trong việc thuyết phục mọi người nên
thành lập gia đình muộn, chứ không thể thuyết phục họ hoàn toàn không nên lập gia
đình. Những người làm Marketing có một số cơ may để thay đổi những giá trị thứ yếu
chứ rất ít khả năng thay đổi những giá trị cốt lõi.
Mỗi nền văn hóa đều bao gồm những nhánh văn hóa
Mọi xã hội đều chứa đựng nhiều nhánh văn hóa, tức là những nhóm người khác
nhau cùng chia sẻ những giá trị nảy sinh từ những kinh nghiệm và hoàn cảnh sống
nhất định. Trong trường hợp các nhóm của những nhánh văn hóa thể hiện những
mong muốn và hành vi tiêu dùng khác nhau, thì những người làm Marketing có thể
lựa chọn các nhánh văn hóa làm những thị trường mục tiêu của mình.
Những giá trị văn hóa thứ yếu biến đổi theo thời gian
Mặc dù những giá trị văn hóa cốt lõi khá bền vững, vẫn có những biến đổi nhất
định. Trong thời kỳ của thập kỷ 60, phong trào "hippi", ban nhạc Beatles, Elvis
Presley, tạp chí Playboy và những hiện tượng văn hóa khác đã có ảnh hưởng lớn đến
cách để tóc, cách ăn mặc, những chuẩn mực về quan hệ nam nữ và mục đích cuộc
sống của lớp trẻ. Lớp trẻ ngày nay lại chịu ảnh hưởng của những nhân vật và một
nhất thời mới: Michael Jordan, Madonna, Bruce Springsteen. Một trong những hình
tượng mới chủ yếu là những nhà chuyên nghiệp trẻ ở thành phố có rất nhiều tham
vọng nghề nghiệp và kiến thức bảo thủ của tuổi trẻ ngày nay.
Những người làm Marketing hết sức quan tâm đến việc phát hiện những biến
đổi về văn hóa có thể báo trước những cơ hội Marketing và mối đe dọa mới. Một số
công ty đã cung cấp những dự báo xã hội/ văn hóa theo hướng này. Một trong những
công ty nổi tiếng nhất là Yankelovich Monitor. Monitor đã phỏng vấn 2.500 người mỗi
năm và theo dõi 35 xu hướng xã hội, như "chán ghét cái to lớn", "thuyết huyền
Page 12
nhiệm", "sống vì ngày hôm nay", "lãnh xa quyền chiếm hữu" và "thích khoái lạc". Nó
mô tả tỷ lệ phần trăm dân cư có cùng quan điểm cũng như tỷ lệ phần trăm dân cư
theo xu hướng ngược lại. Ví dụ, tỷ lệ những người coi trọng sức khoẻ và cuộc sống
sung túc đã tăng lên một cách ổn định trong nhiều năm, đặc biệt là trong nhóm dưới
ba mươi tuổi, những phụ nữ trẻ, nhóm thượng lưu, và những người sống ở miền Tây.
Những người làm Marketing thực phẩm tự nhiên và thiết bị tập thể dục cung cấp cho
xu hướng này những thực phẩm thích hợp và thông tin cần thiết.