Dưới đây là gợi ý làm bài đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Ngữ văn ở Hà Nội năm học 2010 – 2011
Ảnh Internet |
Phần I: (7 điểm)
Câu 1:
- Đoạn văn trên được rút từ tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
- Tên hai nhân vật được nhắc tới trong đoạn trích là bé Thu và ông Sáu (cha của bé Thu).
Câu 2:
- Thành phần khởi ngữ là “Còn anh” (học sinh có thể viết lại đoạn trích trên và gạch chân dưới thành phần khởi ngữ).
Câu 3:
Lẽ ra cuộc gặp mặt sau tám năm xa cách vẫn ngập tràn niềm vui, hạnh phúc. Nhưng trong câu chuyện, cuộc gặp gỡ ấy lại khiến nhân vật “anh” thất “đau đớn” vì:
THAM KHẢO CÁC ĐỀ KHÁC TẠI ĐÂY |
Anh Sáu đi kháng chiến xa nhà đã tám năm, nay được nghỉ phép thăm nhà có ba ngày, trước khi nhận nhiệm vụ mới. Anh khao khát, mong chờ được gặp mặt đứa con gái mà anh chưa từng được biết mặt cha qua tấm ảnh đã không nhận ra anh là cha đẻ của mình, hoảng sợ bỏ chạy vì anh có vết sẹo dài trên má “giần giật ửng đỏ mỗi khi xúc động, không giống tấm hình mà anh chụp chung với mẹ của bé. Anh “đau đớn” vì bất ngờ khi thấy đứa còn mà anh hằng mong nhớ không chấp nhận anh là cha đẻ của mình.
Câu 4:
a) Về hình thức:
- Đoạn văn trình bày theo phép lập luận quy nạp: Câu chốt ý nằm ở cuối đoạn, không có câu mở đoạn, thân đoạn làm sáng rõ nội dung chính bằng các mạch ý nhỏ.
- Đảm bảo chỉ số câu quy định (khoảng 12 câu); viết liên tiếp câu không xuống dòng, những đầu đoạn lùi vào một ô, viết hoa.
- Khi viết không sai lỗi chính tả, phải trình bày rõ ràng.
b) Về nội dung:
Các câu trong đoạn phải hướng vào làm rõ nội dung chính sẽ chốt ý ở cuối đoạn là:
- Tình cảm sâu nặng của người cha đối với con, được thể hiện trong tác phẩm Chiếc lược ngà
- Học sinh lựa chọn nhiều hướng khai thác làm rõ nội dung chính. Các em có thể khai thác mạch ý theo trình tự thời gian …để làm rõ tình cảm sâu nặng của người cha đối với con:
- Khi ông Sáu về thăm nhà:
+ Khao khát, nôn nóng muốn gặp con: Khi xuồng cập bến: Ông “nhảy nhót lên”, “bước vội vàng tới chỗ Thu đang chơi ở nhà chòi, kêu to “Thu! Con”
+ Đau đớn khi thấy con bỏ chạy: “mặt anh tối sầm lại, trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”
+ Suốt ba ngày ở nhà : “Anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con” và khao khát mong được một tiếng ba của con bé”. nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi
- Khi ông Sáu ở trong rừng tại khu căn cứ (ý này là trọng tâm):
+ Sau khi chia tay với gia đình, ông Sáu luôn day dứt, ân hận về việc ông đã đánh con khi nóng giận. Lời dặn của con : “Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!” đã thôi thúc ông nghĩ tới việc làm một chiếc lược ngà cho con.
+ Ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng, hớn hở như một đứa trẻ được quà khi kiếm được một miếng ngà voi. Rồi ông dồn hết tâm trí, công sức vào làm cây lược “ông cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tủ mỉ và cố công như người thợ bạc”, “trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
=> Chiếc lược ngà đã thành một vật quý giá thiêng liêng của ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận , chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.
+ Khi viên đạn bị máy bay Mĩ bắn vào ngực, lúc không còn đủ sức trăng trối điều gì, anh đã “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho bác Ba, nhìn Bác hồi lâu. Và chỉ đến khi bác Ba hứa sẽ trao tận tay bé Thu cây lược ngà thì “Anh mới nhắm mắt đi xuôi”...
=> Cây lược ngà trở thành kỉ vật minh chứng cho tình yêu con thắm thiết, sâu nặng của ông Sáu, của người chiến sĩ cách mạng với đứa con gái bé nhỏ trong hoàn cảnh chiến tranh đầy éo le, đau thương, mất mát. Ông Sáu hi sinh, nhưng tình cha con trong ông không bao giờ mất.
c) Học sinh sử dụng đúng và thích hợp trong đoạn văn viết câu bị động và phép thế.
Chú ý: Gạch chân và chú thích rõ ràng câu bị động, những từ ngữ dùng làm phép thế trong đoạn văn.
Phần II (3 điểm)
Câu 1:
Từ láy trong dòng thơ đầu là “chờn vờn”. Từ láy giúp em hình dung về hình ảnh “bếp lửa” mà tác giả nhắc tới là:
- Ánh sáng ngọn lửa trong bếp bập bùng, khi to, khi nhỏ trong không gian...của buổi sáng tinh mơ ở một làng quê; gợi lên hình ảnh một bếp lửa bình dị, quen thuộc trong cuộc sống còn nghèo khó của người bà.
- Bếp lửa “chờn vờn” ấy luôn in sâu trong kí ức của người cháu, nhớ tới bếp lửa là người cháu lại nhớ tới hình ảnh của người bà bên bếp lửa.
=> Bếp lửa là hình tượng thơ khơi nguồn cảm xúc để người cháu hồi tưởng về hình ảnh người bà kính yêu của mình.
Câu 2:
Câu thơ “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” khép lại khổ đầu bài thơ Bếp lửa, giới thiệu với bạn đọc người luôn làm cho bếp lửa “chờn vờn sương sớm” cháy sáng bằng bàn tay khéo léo của mình là người bà kính yêu.
- Câu thơ đã bộc lộ trực tiếp tình cảm thương, biết ơn bà một cách sâu sắc, khi người cháu đã ở tuổi trưởng thành.
- Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” trong câu thơ diễn tả dòng suy ngẫm hồi tưởng về cuộc đời người bà lận đận vất vả bên bếp lửa nấu ăn cho cả nhà trong mọi hoàn cảnh: lúc “đói mòn, đói mỏi”, lúc “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Nhất là khi chiến tranh “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”.
=> Câu thơ không chỉ gợi tình cảm nhớ thương, kính trọng và của người cháu đã trưởng thành mà còn gợi cho người đọc thấy rằng hình ảnh người bà ở làng quê Việt Nam chịu thương chịu khó, hết lòng vì gia đình.
Câu 3:
Hai bài thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9 viết về tình cảm gia đình hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước là:
a) Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm
b) Nói với con của Y Phương
(Gợi ý lời giải của cô giáo Phạm Tú Anh, giáo viên trường THCS Đống Đa, Hà Nội)
Ban Giáo dục
cú phápthi tốt nghiệp THPT
bạn muốn biết kết quả thi tốt nghiệp bạn có thể soạn tin:
DTN - so bao danh - ma tinh gửi 8749
DTN - so bao danh - ma tinh gửi 8732
Tra cứu đáp án soạn tin:
DAN – SBD mã đề gửi 8749
DAN – SBD mã đề gửi 8732
bạn có thể liên hệ trực tiếp 19006669 để được tư vấn trực tiếp
hoặc bạn vào trang: http://tradiemthi.vn/
Chúng tôi luôn đồng hành cùng bạn