Nhục đậu khấu còn gọi là nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade. Tên khoa học Myristica fragrans Houtt. Thuộc họ Nhục đậu khấu Myristicaceae. Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau: 1. Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu. 2. Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô. Mô tả cây Nhục đậu khấu thuộc loại cây to, cao 8-10m. Toàn thân nhẵn. Lá mọc so le, xanh tươi quanh năm. Màu hoa vàng trắng. Quả hạch, hình cầu hay quả lê, màu vàng, đường kính 5-8cm, khi chín nở theo chiều dọc thành 2 mảnh, trong chứa một hạt có vỏ dày cứng, bao bọc bởi một áo hạt bị rách màu hồng. Cây nhục đậu khấu được trồng ở miền Nam nước ta và Campuchia. Còn mọc ở Indonesia, Malaysia, tây Ấn Độ, đã di thực được vào tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) nơi giáp giới miền Bắc nước ta. Tác dụng dược lý Nhục đậu khấu và ngọc quả hoa đều là những vị thuốc thơm, có tác dụng kích thích. Được dùng trong cả Đông và Tây y. Nhưng dùng với liều cao thì có thể gây độc. Dùng nguyên cả một hạt đã có hiện tượng độc. Sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng mệt mỏi, trì độn và ngủ gật. Dùng ít có tác dụng xúc tiến sự bài tiết dịch vị, giúp tiêu hóa tốt, kích thích nhu động ruột, tạo cảm giác ngon, nhưng uống nhiều quá sẽ làm say tê, có khi tiểu tiện ra huyết rồi chết. Theo Đông y, nhục đậu khấu có vị cay, tính ôn, hơi độc, vào 3 kinh tỳ vị và đại trường, có năng lực ôn tỳ, sáp tràng, chỉ nôn, chỉ tả lỵ, tiêu thực, chữa lạnh bụng, đau bụng, đầy chướng. Phàm nhiệt tả, nhiệt lỵ và bệnh mới phát không được dùng. Công dụng và liều dùng Nhục đậu khấu là một vị thuốc dùng để kích thích tiêu hóa, làm thuốc kích thích chung trong các trường hợp kém ăn, sốt rét. Dùng dưới dạng bột hay thuốc viên. Ngày uống 0,25-0,50g. Có khi dùng 2-4g. Nhưng dùng liều quá cao có thể gây độc. Bơ đậu khấu dùng xoa bóp ngoài chữa tê thấp, đau nhức. Ngọc quả hoa dùng như nhục đậu khấu. Đơn thuốc có nhục đậu khấu 1. Chữa kém ăn, ăn uống không tiêu: Nhục đậu khấu 0,5g, nhục quế 0,5g, đinh hương 0,2g; Tất cả tán thành bột, trộn với đường sữa 1g. Chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói. 2. Thuốc giúp sự tiêu hóa, kém ăn, nôn mửa, đau bụng: Bột quế 100g, bột nhục đậu khấu 80g, bột đinh hương 40g, bột sa nhân 30g, bột canxi cacbonat 250g, đường 500g tán nhỏ. Tất cả trộn đều. Ngày dùng 0,5g đến 4g bột này. Để tăng tác dụng, có thể pha vào bột trên một ít bột thuốc phiện theo tỷ lệ sau: Bột chế như trên 975g, bột thuốc phiện 25g. Tất cả trộn đều. Dùng liều lượng như trên trong các trường hợp đau bụng, đi lỵ. Chú ý dùng cẩn thận vì có thuốc phiện.